Sunday, April 11, 2021

Kệ Cầu An! (tt)

 Ngày mới bắt đầu bằng hừng đông rực sáng, năm mới bắt đầu bằng tháng Giêng tinh khôi.  Phương Đông là phương đứng đầu của bốn hướng. Phương Đông là phương mặt trời mọc, là tượng trưng sự sống tồn tại, phát triển. Cai quản hướng này là Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Một cõi lưu ly trong suốt đẹp ngời ngời không một vết bẩn nhơ và giúp chúng ta tăng phước thọ, tiêu trừ tai nạn. 

Thường thì vào  những ngày đầu năm mới  tháng giêng các chùa tụng kinh Dược Sư  và tụng kinh Dược Sư  được xem là một phương pháp cầu an. Có những ngôi chùa ngày rằm và mùng một hàng tháng ( nghĩa là những ngày sóc , vọng ) họ cũng tụng kinh Dược Sư.
Năm nay tôi có một cái lộc dược sư nên rất vui và an nhiên. Tuy vẫn thấy mình vẫn còn giải đãi lắm vẫn chưa tinh tấn, hứa với lòng mình thôi chứ không dám hứa với  Bụt. Con xin soạn ra một bài chú Dược sư cầu an bài chú này con đã thỉnh trước bàn thờ Phật trước khi con quy y.
 


"Namo bhagavate bhaiṣajyaguru

vaiḍūryaprabharājāya tathāgatāya

arhate samyaksambuddhāya tadyathā:

oṃ bhaiṣajye bhaiṣajye bhaiṣajya-samudgate svāhā".

Phiên âm tiếng Việt:

“Nam mô bạt già phạt đế, bệ sát xã, lũ lô thích lưu ly bác lặc bà, hắc ra xà giả.

Đát tha yết đa da, a ra hắc đế.

Tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha.

Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.”




Giảng Giải

Nam mô: dịch là quy mệnh, hoặc tin theo, cung kính y theo, quay về đảnh lễ, kính xin hóa độ con. Nam mô có nghĩa là cung kính, cũng có nghĩa là tin tưởng nhất, không có mảy may hoài nghi. Cho nên nói cung kính quy mệnh nương về, đem thân tâm tính mệnh quy y Phật, cũng tức là tín ngưỡng Phật một cách không điều kiện, biết Phật sẽ hóa độ chúng ta. Cho nên nói : “Quy mệnh kính đầu nghĩa Na mô”. Nam mô tức na mô là tiếng Phạn, có nghĩa là quy mệnh cung kính nương về, cũng có nghĩa là kính lễ tin theo.

bạc già phạt đế: dịch là “Bạt Già Phạm”. Bạt Già Phạm là tiếng Phạn có sáu nghĩa:
1. Tự tại
2. Sí thạnh
3. Đoan nghiêm
4. Danh xưng
5. Cát tường
6. Tôn quý.

Vì có sáu nghĩa này, cho nên Bạt Già Phạm trong Kinh văn hoặc trong Chú không phiên dịch. Đây gọi là “đa hàm không dịch”, là một trong năm loại không dịch.

Tự tại là gì ? Tức là vô tại vô bất tại. Phật thì vô tại vô bất tại. Bạt Già Phạm là một danh hiệu của đức Phật.

Sí thạnh là hình dung oai đức của Phật, rực sáng như lửa.

Đoan là đoan chánh. Nghiêm là oai nghiêm, đây là Phật có 32 tướng, 80 vẻ đẹp, rất đoan nghiêm.

Danh xưng của Phật nghe khắp, cho nên chúng sinh đều biết.

Bất cứ ai gặp được Phật đều đắc được cát tường, tùy tâm mãn nguyện, cát tường như ý.

Tôn quý là nói mười tướng tốt của Phật, là trời người đều tôn quý trong tam giới

Cho nên nói ‘’Nhiều nghĩa không dịch Bạt Già Phạm – Tự tại sí thạnh diệu đoan nghiêm.’’ Ngài rất tự tại sí thạnh đoan nghiêm. ‘’Nghe đến danh hiệu được cát tường.’’ Bất cứ ai nghe đến danh hiệu của Phật đều đắc được cát tường, nơi nơi đều cát tường. ‘’Trời người tôn quý đồng chiêm ngưỡng.’’ Trời người đều cung kính Ngài, chiêm ngưỡng Ngài, Phật giống như mặt trời.

bệ sát xã: là tên gọi của đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở phương đông tức cũng là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. Trong chú Lăng Nghiêm là “Ti Sa Xà Gia” trong câu: Nam mô bà già bà đế, ti sa xà gia

“Dược” nghĩa là thuốc; “Sư” là thầy. Vị Phật nầy là một thầy thuốc lớn, có thể trị tất cả mọi bệnh tật của con người trong thế gian. Bất kể quý vị bị chứng bệnh nan y gì, nếu được Ngài cứu chữa thì chắc chắn bệnh sẽ hết. Bệnh gì cũng được chữa lành, ở cửa tử mà được hồi sanh, bệnh đáng chết mà được cứu sống. Bởi vậy Ngài mới có tên gọi là “Dược Sư”.

lụ rô tịch lưu ly: là cõi tịnh độ Lưu Ly ở phương đông cực lạc.

“Lưu Ly” là một chất trong suốt, ở trong có thể nhìn thấu ra ngoài, ở ngoài có thể nhìn xuyên vào trong. Lưu Ly là tên của quốc độ quả báo (báo độ) của Đức Dược Sư, gọi là thế giới Lưu Ly và Ngài là vị giáo chủ. Thân thể của Ngài cũng là chất lưu ly, nội ngoại đều sáng trong, tinh khiết.

bát lặc bà: hay Bát La Bà tức là “trí huệ quang minh”.

“Đại tài Bát Nhã trí huệ quang, Phổ chiếu pháp giới tánh trung vương”

Đây là nói :‘’ Đại tài Bát Nhã trí huệ quang – Chiếu khắp pháp giới tính trung vương.’’ Tính trung vương tức là bổn thể của Phật.

hắc ra xà dã: Đây là nói “phổ lễ tất cả các vị bồ tát”. Dịch là “Kim Cang thủ chủ”, tức là Kim Cang thủ lãnh. Vị ấy thượng thủ trong Kim Cang. Nghĩa là “thương chúng sinh khổ”. Vì thương xót tất cả chúng sinh khổ, nghĩ muốn chúng sinh lìa khổ được vui, ra khỏi ba cõi, cho nên muốn cứu độ chúng, từ từ giáo hóa chúng, khiến cho tất cả tự phát bồ đề tâm, thoát khỏi dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Kim Cang Tạng Bồ Tát hộ niệm người tu hành, tế độ họ, khiến cho họ từ bờ sinh tử bên này qua dòng sông phiền não, đạt đến bờ bên kia Niết Bàn, khiến cho tất cả phiền não và bệnh khổ của họ chẳng còn nữa, rốt ráo lìa khổ được vui.

đát tha yết đa gia: hay đa tha già đa gia. Đây là nói “phổ lễ tất cả đệ tử của Như Lai”. Đệ tử của Như Lai là ai ? Là hết thảy tất cả hiền Thánh Tăng, cho nên nói : ‘’Thường trụ Tam Bảo Phật Pháp Tăng.’’ Thường trụ tức là thường trụ bất biến, đó là tận hư không biến pháp giới, một thứ chánh khí, đạo phải có Phật có Pháp có Tăng. Phật kể cả Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai, đây gọi là tất cả chư Phật ba đời.

Tam Bảo tức là Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Sao gọi là bảo ? Vì rất ít có, chẳng phải lúc nào cũng có thể thấy được. Tuy nhiên thường trụ nhưng nghiệp chướng của chúng ta che lấp trí huệ của mình, cho nên không thấy được Phật, không nghe được Pháp, không thấy được Tăng. Bây giờ chúng ta thấy Phật, nghe Pháp, gặp Tăng, cho nên phải một lòng cung kính, chuyên nhất kỳ tâm, tâm không có hai niệm. Cung kính Tam Bảo phải kiền thành, chẳng phải làm hình thức, biểu diễn bên ngoài, phải cung kính chân thật, tâm thật không hai, càng kiền thành càng tốt.

‘’Đệ tử Như Lai A La Hán.’’ Đệ tử của Phật tức là tất cả đại A La Hán, đại Tỳ Kheo Tăng, đêm dài tối tăm ở đây, thì A La Hán hiền Thánh Tăng Tam Bảo là đèn sáng chỉ đường cho chúng ta, cho nên ‘’Đèn sáng lớn phá tan đêm tối.’’ Đèn sáng lớn, tức là chánh khí, chánh pháp trụ thế. Những kẻ bác vô nhân quả, làm nhất xiển đề cũng giống như đêm dài tối tăm, không thấy quang minh. Phật Pháp Tăng Tam Bảo, tức là đèn sáng lớn phá đêm dài tối tăm.

a ra hắc đế: hay là A La Ha Đế nghiã là “tất cả ứng chân chúng vương tộc”. Ứng là cảm ứng đạo giao. Chân là chân thật thị hiện

tam miệu tam bột đà da: Là quy mạng mười phương ba đời tất cả chư Phật. Câu chú là “quy mạng tất cả Chánh Giác Phật Thế Tôn”. Quy là tâm có chỗ trở về, có chỗ nương tựa. Mạng tức là mạng sống, đem mạng sống của chúng ta ký thác cho Phật Chánh Giác. Chánh Giác thì chẳng phải là tà giác. Tà giác cũng rất thông minh, có chút trí huệ, nhưng đi vào đường tà, đi vào con đường bàn môn tả đạo, tà tri tà kiến, hành vi bất chánh. Chúng ta quy y chánh giác Phật.

Phật là nửa chữ Phạn ngữ, đầy đủ gọi là Phật Đà Gia vì người Tàu thích gọi tắt cho nên chỉ gọi một chữ Phật. Dịch là “giác giả”, giác có ba loại là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Giác tha tức là dùng những đạo lý mình đã hiểu, khiến cho kẻ khác cũng hiểu. Tự giác trong Nho giáo là minh minh đức, đem đức hạnh của mình hiện ra quang minh, minh mà lại minh, bổn hữu trí huệ quang minh lộ ra. Giác tha tức là dùng đức hạnh minh minh đức của mình giáo hóa kẻ khác, khiến cho họ cũng minh minh đức đạt đến mức chí thiện. đến chí thiện rồi tức là giác hạnh viên mãn.

Đát điệt tha: Tiếng Phạn là Tadyatha. Đát điệt tha Hán dịch là “tức thuyết chú viết”. Còn dịch là “Sở vị” có nghĩa là vô lượng pháp môn tu học và trí huệ nhãn vô lượng.

Đát điệt tha còn có nghĩa là “thủ ấn” nghĩa là kết ấn bằng tay. Cũng gọi là “trí nhân” nghĩa là khai mở con mắt trí tuệ của chúng sinh.

Án: Tiếng Phạn là Om. Án nghĩa là “Bổn mẫu”, là “Chú mẫu” mẹ của tất cả mọi thần chú; cũng chính là “Phật mẫu” mẹ của tất cả chư Phật. Mẹ của chư Phật có nghĩa là mẹ của nguồn tâm trong mọi loài chúng sinh, vì nguồn tâm của chúng sinh vốn có sẵn mọi trí tuệ, thường xuất sinh các pháp lành, nên gọi là “Bổn mẫu”.

Chữ Án này có rất nhiều nghĩa. Có nghĩa là : “Dẫn sinh”, tức là dẫn sinh tất cả công đức. Có nghĩa là: “Hàng phục”, hàng phục thiên ma ngoại đạo. Có nghĩa là: “Ủng hộ”, ủng hộ tất cả chánh pháp. Có nghĩa là : “Ba thân”, đầy đủ pháp thân, báo thân, hóa thân. Cho nên khi niệm chữ Án, thì quỷ thần đều phải chắp tay cung kính nghe mệnh lệnh, nếu không thì chúng sẽ bị trừng phạt. Chữ Án như là chiếu chỉ của hoàng đế, văn võ bá quan đều phải quỳ xuống lắng nghe. Chữ Án là sự thành tựu công đức, bạn có tu hành, thì niệm chữ Án sẽ có cảm ứng phi thường.

bệ sát thệ, bệ sát thệ: nghĩa là Như Lai. Sao gọi là Như Lai ? “Vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ”, không có chỗ đến, cũng không có chỗ đi nên gọi là Như Lai. Không đến không đi, như đến nhưng dường như không đến. Cho nên nói : “Vô lai vô khứ kính trung hoa”, cũng không có từ chỗ đến, cũng không có chỗ đi, giống như hoa trong gương vậy, quý vị nói hoa trong gương từ đâu đến, lại đi về đâu ?

Ðức Phật thì không giống với Bồ tát, Ðức Phật có thể tự giác lại có thể giác tha và lại giác hạnh viên mãn. Giác viên mãn, vạn hạnh cũng viên mãn. Tam giác viên mãn muôn vạn đức hạnh đầy đủ, cho nên gọi là Phật

bệ sát xã: là tên gọi của đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở phương đông tức cũng là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật.

tam một yết đế tóa ha. nghĩa là ba đời khen ngợi tán tức giai giải thoát đến bến bờ bên kia. Tóa ha tiếng Phạn là Svaha hay ta bà ha dịch là “thành tựu”. Thành tựu điều gì? Thành tựu mọi thệ nguyện của hành giả. Bất luận quý vị phát tâm nguyện gì, quý vị sẽ đạt được như ý khi niệm.

No comments: