Sự kiện Giáng sinh (Chúa Ki-tô chào đời) đã được nhiều họa sĩ cổ xưa mô tả lại qua những bức tranh, toát lên lòng kính ngưỡng tột bậc đối với sự kiện này, thể hiện trong các đỉnh cao của nghệ thuật hội họa đương thời.
1. Sự báo tin
Đây là tín tức được lan truyền từ một thiên thần: Đức Trinh Nữ Maria đang mang thai. Con trai của Chúa trời đang trên đường đến thế gian. Trong bức tranh tinh xảo vẽ bởi một thầy tu người Florence này, phần chớp nhoáng của câu nói đó dường như là chính khoảnh khắc thụ thai. Đức Mary ngạc nhiên lắng tai nghe, hai tay đan chéo đặt trên thân thể như nhận được một phước lành, đồng thời cũng như thể bảo vệ sinh linh bé nhỏ ở đó. Khuôn mặt bà là một bức chân dung duyên dáng của sự kinh ngạc, bối rối và cảm động: một sự mặc khải bất ngờ được biểu hiện.
Bức tranh “Sự báo tin”, Họa sĩ Fra Angelico, Tu viện San Marco, Florence.
2. Giấc mơ của Thánh Joseph
Trong “Phúc âm của Matthew”, Đức Mary đã thề với Thánh Joseph khi ông phát hiện ra bà đã có thai. Trong lúc rụng rời, ông vẫn quyết định tiếp tục cuộc hôn nhân này, nhưng tràn ngập trong ý nghĩ rằng sẽ ly hôn trong tương lai. Nhưng Thiên Chúa đã gửi một thiên thần đến với Thánh Joseph trong một giấc mơ của ông để giải thích về sự mang thai thần thánh đó và yêu cầu ông đặt tên cho em bé là Jesus. Họa sĩ người Pháp Champaigne là một trong số rất ít họa sĩ đã miêu tả câu chuyện của Thánh Joseph, tưởng tượng ra tình huống khó xử của ông ta và sự mách bảo của thiên thần. Và đúng như một nhân vật trong giấc mơ, thiên thần không cần dùng tới lời nói, mà giải thích điều bí mật cho ông hoàn toàn bằng ngôn ngữ ký hiệu.
Bức tranh “Giấc mơ của Thánh Joseph”, Họa sĩ Philippe de Champaigne, Phòng triển lãm Quốc gia, Luân Đôn.
3. Mary và Joseph trên đường đến Bethlehem
Đức Mary và Thánh Joseph đang trên đường đi qua một phong cảnh núi đá. Bà đã rời khỏi lưng lừa, có lẽ vì sợ cưỡi lừa xuống một con dốc cao nguy hiểm như vậy. Thánh Joseph, ủ rũ và mệt mỏi, đang giúp bà với tất cả lòng yêu thương của ông. Hành động của ông (chứ không phải là vẻ ngoài của bà) cho thấy bà đang mang thai mệt nhọc thế nào. Người cha tại trần gian của Chúa Jesus thường được miêu tả là người vụng về, nhưng bức tranh này lại không tỏ ra như vậy – đây là một chi tiết trích từ Bàn thờ nổi tiếng “Portinari” ở Florence. Ông ấy đang cố gắng làm mọi thứ có thể, với tư cách là người chồng và người cha tương lai, để bảo vệ gia đình nhỏ của mình khỏi khó khăn và nguy hiểm.
Bức tranh “Mary và Joseph trên đường đến Bethlehem”, Họa sĩ Hugo van der Goes, Phòng trưng bày Uffizi, Florence.
4. Điều tra dân số tại Bethlehem
Luke mô tả sự kiện này như sau “Vào những ngày đó, một quyết định đã được ban hành từ Caesar Augustus, rằng tất cả mọi người nên phải đăng ký…, Thánh Joseph đã đến Bethlehem để đăng ký cùng với Mary, người đang ở cùng em bé”. Đối với họa sĩ Bruegel, sự kiện này là đương đại, xảy ra ở nước Bỉ ở quê hương ông trong thời gian khắc nghiệt nhất của mùa đông. Đức Mary và Thánh Joseph chỉ là hai trong số những người nghèo đang lê bước trong không khí đóng băng, xếp hàng chờ đến lượt, trong bộ máy quan liêu bị áp đặt tàn nhẫn này. Điều duy nhất phân biệt họ trong sự khốn khổ và hỗn loạn toàn cảnh chính là con lừa mà ai cũng biết.
Bức tranh “Điều tra dân số tại Bethlehem”, Họa sĩ Peter Bruegel the Elder, Bảo tàng Mỹ thuật Hoàng gia Bỉ, Brussels.
5. Sự sinh hạ
Trong số hàng ngàn cảnh tượng sinh hạ trong nghệ thuật phương Tây, bức tranh này là một trong những cảnh với bà mẹ dịu dàng nhất. Đức Mary quỳ gối khiêm nhường trước Chúa, nhưng ở bà cũng tràn đầy tình yêu dành cho đứa con mới sinh của mình. Hai mẹ con nhìn vào mắt nhau và toàn bộ bố cục nhấn mạnh sự gắn kết giữa họ. Nghệ thuật của Barrocci, mãi cho đến gần đây vẫn là một trong những họa sĩ bậc thầy của Ý bị bỏ qua nhiều nhất, được ưa chuộng đặc biệt với chân dung những phụ nữ trong cuộc đời ông, nên không khó hiểu tại sao có sự yêu thích đến thế với bức tranh sinh hạ Chúa này, trong đó đứa trẻ rạng rỡ chiếu sáng khuôn mặt yêu thương kỳ diệu của Đức Mary.
Bức tranh “Sự sinh hạ”, Họa sĩ Federico Barrocci, bảo tàng Prado, Madrid.
6. Truyền tin tới các mục đồng
Luke báo cáo rằng những người chăn cừu đang chăm sóc đàn con chiên của họ bên ngoài Bethlehem thì một thiên thần đột nhiên xuất hiện, truyền tin rằng một vị cứu tinh vừa được sinh ra trong thị trấn này. Họa sĩ thời trung cổ Taddeo Gaddi đã tưởng tượng cảnh tượng đó diễn ra trên một ngọn đồi dốc vào nửa đêm. Chỉ có một trong những người chăn cừu thức dậy lúc đó, còn người kia ngồi ngủ gục bất động như một tảng đá phía sau anh ta. Một vài con cừu và chó cũng bắt đầu thức dậy, khi vị thiên thần nói xuống từ trên cao – người chăn cừu và gia súc của anh ta bừng tỉnh trước tin tức đáng kinh ngạc.
Bức tranh “Truyền tin tới các mục đồng”, Họa sĩ Taddeo Gaddi, nhà thờ Santa Croce, Florence.
7. Đám rước của vị pháp sư
Không chỉ 3 vị vua, mà có tới 33 người – cả một đoàn kỵ binh vĩ đại, giàu có và quyền lực đang đi theo con đường dẫn xuống một thung lũng dốc trên đường đến Bethlehem. Bức bích họa của họa sĩ Gozzoli, cùng với hươu, chó săn và ngựa, cuộc săn bắn và giao tiếp xã hội, gần như được vẽ ra từ cuộc sống (Bản thân nghệ sĩ cũng có chân dung trong bức tranh). Hình ảnh này để kỷ niệm các sự kiện có thật – đám rước Epiphany hàng năm ở Florence vào thế kỷ 15 – khi nó cố gắng hiện thực hóa các sự kiện Kinh Thánh cho người xem đương đại. Đây là điểm cao của nhà nguyện Magi ở Florence.
Bức tranh “Đám rước của vị pháp sư”, Họa sĩ Benozo Gozzoli, cung điện Medici Riccardi, Florence
8. Chầu Thánh Thể
Nhiều pháp sư hơn – bao gồm Lorenzo và Giuliano (những người bảo trợ của họa sĩ Botticelli) – được xuất hiện trong tranh với các trạng thái thờ phượng khác nhau trước Chúa Kitô mới sinh. Khung cảnh hoàn toàn là sự thần thánh và im lặng. Không phải tất cả các pháp sư đều chú ý tới Chúa nhỏ bé, khi mà sự ra đời kỳ diệu của Ngài đã diễn ra trong một ngôi nhà hoang với chiếc mái sắp sụp đổ. Nhưng Botticelli đã nâng gia đình Thánh vượt lên trên những người Ý đang xếp hàng, và tìm cách lồng ghép quá khứ xa xưa vào hiện tại. Ông đã làm giảm sự căng thẳng cho bức tranh bằng cách bao gồm chính mình vào góc ngoài cùng bên phải, điều chỉnh người xem bằng một ánh mắt đầy áp lực, như muốn hỏi họ kính yêu Chúa sâu sắc đến mức nào.
Bức tranh “Chầu Thánh Thể”, Họa sĩ Botticelli, Phòng trưng bày Uffizi, Florence.
9. Chầu của các mục đồng
“Giorgione bí ẩn” là họa sĩ để lại rất ít tác phẩm do ông mất sớm, nhưng tác phẩm này là một kiệt tác để thưởng thức. Thánh Joseph vẻ già nua đang cúi đầu cầu nguyện, Đức Mary giữ một tư thế thờ phượng im lặng trước Chúa Kitô nhỏ bé, với khuôn mặt mờ ảo, trầm tư. Còn những người chăn cừu, trong quần áo rách rưới, không nói lời nào, nhưng thể hiện tràn đầy tình yêu dành cho em bé. Họ là những người đầu tiên đến đó, là người đầu tiên hiểu điều họ đang nhìn thấy, trước khi đám đông đến nơi. Khung cảnh này rất gần gũi và thân mật, dựa trên cảnh quan của xứ Venice xa xôi. Không có con cừu nào trong bức tranh. Chỉ bằng vào sự khiêm nhường của họ, người xem biết họ chính là các mục đồng.
Bức tranh “Chầu của các mục đồng”, Họa sĩ Giorgione, Phòng triển lãm nghệ thuật quốc gia, Washington.
10. Lúc nghỉ ngơi trên đường đến Ai Cập
Đây thật là một cảnh tượng khác thường, bị chia cắt bởi một bức tường gạch xù xì, với một cái đầu lừa lừa nhô lên khỏi bức tường, bức tranh “Lúc nghỉ ngơi” của họa sĩ Gentileschi là một tác phẩm kỳ lạ tới mức đáng kinh ngạc. Thánh Joseph nằm bẹp vì kiệt sức, đầu ngửa ra sau. Bàn chân của Trinh nữ Mary dính đầy đất bẩn, và bà quá mệt mỏi nên không thể ôm chặt em bé đang đói khát, có vẻ đang liếc nhìn khán giả. Chính vì gia đình Thánh trong bức tranh này đang chạy trốn khỏi kẻ giết người Herod và vụ thảm sát của hắn ta đối với những người vô tội, nên không còn là những cảnh Chúa giáng sinh đẹp đẽ như trước nữa.
Bức tranh “Lúc nghỉ ngơi trên đường đến Ai Cập”, Họa sĩ Orazio Gentileschi, Phòng trưng bày nghệ thuật Birmingham.
Có những bài hát nói về các địa danh trên thế giới , trong những bài hát này có nhiều bài nổi tiếng và quen thuộc với mọi người như Casablanca , Kingston Town , Mississippi , River Babylon , North To Alaska , Wisherpering Pine , San Francisco , Massachusetts…
Những địa danh được nói đến trong ca khúc như đó là một kỷ niệm của tác giả , là quê hương hay đó là nơi mà tác giả đã từng đến và để lại trong lòng tác giả nhiều cảm xúc như bài hát Mississippi chẳng hạn .
“Tên “San Francisco” theo tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “Thánh Phanxicô thành Assisi”. Cựu Kim Sơn là cách gọi của người Trung Hoa từ xưa cho đến bây giờ vì khi xưa nơi đây là nơi người ta đổ xô đi tìm vàng và nó có ý nghĩa là “Núi Vàng Xưa”. ) . Vào giữa thế kỷ 19, nhiều người Trung Hoa đã nhập cư vào Hoa Kỳ và định cư tại nơi này. Họ nhập cư để tìm vàng hay để làm việc lắp đường rầy xe lửa xuyên qua địa lục. Để miêu tả miền đất hứa này, họ gọi nơi này là Cựu Kim Sơn (旧金山 hay “núi vàng cũ”). Tên này vẫn còn được sử dụng trong tiếng Hoa. Nhiều văn bản tiếng Việt cũ theo đó cũng gọi tên thành phố này bằng tên này.
San Francisco là thành phố đông dân thứ 4 ở tiểu bang California và là thành phố đông dân thứ 14 ở Hoa Kỳ, với dân số ước tính năm 2006 là 744.041 người. San Francisco là thành phố lớn có mật độ dân số cao thứ 2 in the U.S. San Francisco được xếp hạng là một thành phố thế giới beta theo xếp hạng của Nhóm nghiên cứu thành phố thế giới và Toàn cầu hóa của Đại học Loughborough. Thành phố nằm trên mũi của Bán đảo San Francisco, với Thái Bình Dương nằm về phía tây, Vịnh San Francisco nằm về phía đông, và Golden Gate về phía bắc.
Năm 1776, người Tây Ban Nha đã định cư ở khu vực mũi của bán đảo, thiết lập pháo đài tại Golden Gate và hội truyền giáo đặt tên theo Francis của Assisi. Cuộc đổ xô đi tìm vàng California năm 1848 đã đưa thành phố này trải qua một giai đoạn tăng trưởng nhanh. Sau khi bị trận động đất và hỏa hoạn năm 1906, San Francisco đã nhanh chóng được xây dựng lại.
San Francisco là một điểm đến du lịch quốc tế phổ biến nổi tiếng có sương mù mùa Hè lạnh lẽo, các đồi nhấp nhô và dốc, một hỗn hợp chiết khúc của kiến trúc Victoria và kiến trúc hiện đại, dân số đồng tính luyến ái, lưỡng tính và xuyên giới tính lớn, và vị trí bán đảo của nó. Các địa điểm nổi bật nổi tiếng có cầu Cổng Vàng, đảo Alcatraz, xe điện cáp, tháp Coit, và Chinatown…”
San Francisco
Scott Mackenzie
If youre going to San Francisco Be sure to wear some flowers in your hair If youre going to San Francisco Youre gonna meet some gentle people there
For those who come to San Francisco Summertime will be a love-in there In the streets of San Francisco Gentle people with flowers in their hair All across the nation, such a strange vibration
People in motion Theres a whole generation, with a new explanation People in motion, people in motion For those who come to San Francisco Be sure to wear some flowers in your hair If you come to San Francisco Summertime will be a love-in there If you come to San Francisco Summertime will be a love-in there
Dịch ý
Nếu như em đi đến San Francisco hãy chắc rằng có cài vài đóa hoa trên tóc Nếu như em có đi đến San Francisco Em sẽ gặp được những người tử tế ở đó
Cho những ai đến San Francisco Hè đến sẽ là một cuộc tình cho những ai ở đó Trên những con đường của San Francisco Những người nhã nhặn với đóa hoa cài tóc đều ngang qua đây như một cảm xúc lạ lùng
Mọi người vẫn xuôi ngược Có sự phát triển yên bình với một sự lý giải mới lạ Mọi người vẫn xuôi ngược, tấp nập Dành cho những ai đến San Francisco hãy chắc rằng có cài đóa hoa trên tóc Nếu em có đến San Francisco Ngày hè đến sẽ là một cuộc tình nơi đó Nếu như em có đến San Francisco Ngày hè đến sẽ là một cuộc tình.
Enrico Toselli (13/3/1883 – 15/1/1926) là nghệ sĩ dương cầm, nhà soạn nhạc nổi tiếng người Ý. Ngay từ lúc trẻ, ông đã bắt đầu sự nghiệp sáng chói của mình như là một nghệ sĩ piano cho các buổi hòa nhạc ở Ý, Châu Âu và Bắc Mỹ với danh tiếng lẫy lừng. Ông đã sáng tạc rất nhiều bài hát, cùng với hai vở nhạc kịch nổi tiếng (La cattiva Francesca – 1912 và La principessa bizzarra – 1913). Một trong những bản nhạc nổi tiếng nhất của ông chính là bản “Serenata” này đây
Tôi yêu thích bản dạ khúc này qua giọng hát ru của mẹ tôi , mẹ tôi yêu thích nhạc cổ điển và đây lại là bản nhạc mà ông ngoại tôi vẫn thường đàn mangdolin vào những buổi chiều xưa . Có hai bản nhạc mang hai cái tên giống nhau Serenade và Serenata , cả hai bản này đều có giai điệu nhạc rất hay . Seranade có tên tiếng Việt là Dạ Khúc và Serenata có tên tiếng Việt là Chiều Tà . Những nốt nhạc du dương như đưa ta vào tiên cảnh , ta xa rời chốn thương đau .
Chiều tà
Tác giả: Enrico Toselli
Lời Việt: Phạm Duy
Lắng trầm tiếng chiều ngân Nhạc dặt dìu ái ân Người ôi ! Nhớ mãi cung đàn Năm tháng phai tàn Duyên kiếp vẫn còn lỡ làng Đã quên hết sầu chưa Lời này là tiếng xưa Quỳ dâng dưới nắng phai mờ Bên gối ơ thờ Ôi tiếng tơ tình mong chờ Chiều êm êm đưa duyên về người Đàn triền miên nắn tiếng sầu đời Người hỡi! Đến bên tôi nghe lời xao xuyến Như chuyện thần tiên. Niềm mơ xưa là đó Cho ta nâng niu lời ca Chiều mơ không gian Hờ hững cõi Thiên Đàng Thuyền trôi bến sông xa đừng chờ Xin hãy lắng nghe bao lời thơ chiều tà Nhạc chiều của chúng ta Là câu ân ái muôn đời Bóng đã xế rồi Hãy nép trong lòng cõi đời. Tình Yêu mãi mãi…
Serenade (dạ khúc) là một khái niệm trong âm nhạc, chỉ những bản nhạc viết về nỗi nhớ hoặc tình cảm của tác giả đối với người yêu, người bạn thân thiết trong khung cảnh đứng bên cửa sổ lúc chiều tà. Trong âm nhạc có rất nhiều bản nhạc, ca khúc mang tên “Serenade”/”Serenata” (quốc tế) hoặc “Dạ khúc” (Việt Nam), đa số chúng đều rất tình cảm và có gì đó thật da diết. Nhưng nổi tiếng nhất có lẽ là bản “Serenade” của Schubert, và bản Serenata của Enrico Toselli .
“Serenade” (hay còn gọi là “Serenata”), nghĩa là khúc ban chiều – nhạc theo phong cách lãng mạn. Bản Serenade thường chơi vào buổi chiều tà, ở ngoài trời, và ngày xưa thường ngay dưới cửa sổ nhà người yêu. Cho đến bây giờ, có hai bài viết theo thể Serenade nổi tiếng nhất mà chưa có bài nào vượt qua được hai bài bất hủ này. Đó là “Serenade” của Schubert và “Serenata” của Enrico Toselli.
Những nhà bình luận đã nói về vẻ đẹp của những bản Serenade:
” Những lời nỉ non, thổn thức của ca từ quyện với một giai điệu lãng mạn, quyến rũ, các bản Dạ Khúc là một thông điệp tình yêu chuyển tải bẳng âm nhạc tuyệt vời.
Nhưng hơn thế, “Dạ Khúc” còn là một bức tranh toàn bích, sâu lắng… mang dáng dấp hơi thở không chỉ của thời đại đó mà của muôn mọi thời đại. Các nhạc sĩ thiên tài đã nói lên tiếng lòng mình trong thời khắc đêm về, ngoài niềm khắc khoải thường tình về tình yêu đôi lứa, còn như thân phận con người nhỏ nhoi đầy bất trắc trước mênh mông vũ trụ.
Bài nhạc có giai điệu rất đẹp, trữ tình, lai láng, với những tiếng chim hót líu lo, không trầm mặc, buồn nhưng vẫn phảng phất đâu đó niềm hy vọng và hoài bão hướng thiện. Một bức tranh tuyệt mỹ. Các nhạc sĩ thiên tài như nói lên tiếng lòng của muôn người, muôn thế hệ…”
Serenade (khúc nhạc chiều) có thể là một bản tình ca dành tặng cho một cá nhân, được biểu diễn dưới cửa sổ vào lúc chiều tối, đối lập với thể loại aubade (khúc nhạc sớm). Nhưng loại serenade quan trọng nhất và thịnh hành nhất trong lịch sử âm nhạc là một tác phẩm viết cho hòa tấu khí nhạc quy mô lớn gồm nhiều chương, gần giống với các thể loại divertimento và cassation.
So với các thể loại tác phẩm nhiều chương viết cho hòa tấu lớn khác (giao hưởng chẳng hạn), serenade thường có tính chất nhẹ nhàng, thanh thoát hơn. Khi soạn serenade, nhà soạn nhạc coi trọng tính chất du dương hơn là việc phát triển chủ đề hay sức mạnh kịch tính .
Âm nhạc phương Tây có mấy thể điệu lấy tên của thời điểm trong ngày: “Serenade”, “Nocturne” chẳng hạn.
“Serenade” là nhạc theo phong cách đặc biệt lãng mạn: buổi chiều tà, mặt trời vừa lặn, trăng vừa lên, một chàng lãng tử si tình đem đàn đến đứng dưới bao-lơn của một nàng thục nữ mà hát lời tỏ tình. Câu mở đầu nơi bài hát “Một Buổi Chiều Mơ” của T H khi xưa đã diễn tả đúng cái khung cảnh đó:” Êm đềm ánh trăng lan, màu sáng huy hoàng qua lầu nàng ..” Ấy là lúc chàng đang đứng dưới “balcon” (tiếng Pháp) nhà người đẹp mà bắt đầu lên giây đàn!
Nhưng đến khuya rồi thì người đẹp đã đi ngủ mất đất, chàng nghệ sĩ thay vì “tỏ tình” thì chỉ còn có nước ôm đàn về nhà mà “tự tình”. Âm hưởng của một thứ “Tự Tình Khúc” nơi thể điệu “Nocturne” tương đối rõ nét là vì thế! (tỷ dụ như bài rất nổi tiếng “Nocturne en Mi bemol majeur” của Chopin). Nếu âm hưởng của các bản Serenades la dìu dặt, réo rắt thì âm hưởng nơi thể điệu “Nocturne” thường là “sầu lắng” (theo nghĩa “profound”), thanh thoát, trầm mặc.
Mà cái thời người ta viết ca khúc theo thể Serenade thì tuy gọi là “lãng mạn”, trữ tình, thế nhưng ý nhạc không tầm thường ở cái mục chỉ là chuyện tình duyên đôi lứa (Xét cho cùng thì “Nhạc Tiền Chiến” mang rất rõ phong cách của thể Serenade và Nocturne khi xưa ở phương Tây)
Hai bài nổi tiếng nhất từ xưa đến giờ, viết theo thể Serenade: “Serenade de Schubert” và bài “Serenata” của Enrico Tosselli, người Ý Hình như cho đến bây giờ chưa có bài nào theo thể điệu này mà vượt qua được hai cái bài bất hủ ấy! Mà của đáng tội khi hai ông nhạc sĩ viết hai bản nhạc đó thì nào có phải là họ viết ca khúc. Hai ông chỉ viết nhạc, dùng “ngôn ngữ” của nhạc để nói lên thứ tình cảm mà nghe qua là thấy ngay vai trò của không gian, của thiên nhiên nhiều hơn là con người.
Trong opera và nhạc cổ điển, nữ cao trữ tình (lirico soprano) được định nghĩa là một loại giọng nữ cao ấm áp, có độ sáng, giàu âm sắc, âm khu trung đầy đặn, bay bổng, mềm mại, thường thể hiện vai những người phụ nữ hiền lành, yếu mềm.
Có hai loại nữ cao trữ tình là full lirico soprano (nữ cao trữ tình đầy đặn) và light lirico soprano (nữ cao trữ tình mảnh).
Đặc trưng của full lirico soprano là âm sắc đầy đặn, có độ dày, khỏe, legato (hát liền note) phát triển với full voice (hát toàn giọng), có khả năng điều chỉnh âm lượng vừa phải trên quãng cao, âm lượng chắc chắn ở những quãng hát dài hơi.
Đặc trưng của light lirico soprano là âm sắc mảnh, sáng, có khả năng chuyển giọng và pha giọng nhanh chóng, thực hiện kĩ thuật hoa mĩ dễ dàng hơn.
Serenade – Khúc nhạc chiều trong lòng người im vắng
Khi tôi muốn ca hát về tình yêu thì tình yêu lại biến thành đau khổ Nhưng khi tôi chỉ muốn hát về đau khổ thì đau khổ lại hoá thành tình yêu.
Không biết đã bao nhiêu lần tôi nghe giai điệu của Serenade . Giai điệu chậm trôi như từng sợi hoàng hôn buông thả nhẹ nhàng khi màu đêm đang dần buông xuống . Có chút gì đó như lắng đọng vô hình . Một nỗi buồn vô cớ bỗng chợt xâm chiếm lấy tâm hồn , dẫu cho ngay cả lúc đôi mắt trong màu bình yên . Từng tiếng réo rắt của âm đàn Violin như thôi miên người nghe vào một buổi chiều xa lắc , một buổi chiều như hiện hữu bỗng chốc hoá xa xăm .
Trong âm nhạc , Serenade được biết đến như các sáng tác hoặc một hình thức mang tính biểu diễn . Vào thời kỳ âm nhạc cổ điển thịnh hành , Serenade là những bản nhạc được biểu diễn dưới những buổi chiều tà , thường được cất lên giai điệu dưới những khung cửa sổ dành riêng cho người tình hoặc bạn bè . Thói quen ấy bắt đầu vào thời kỳ Phục Hưng cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại ở một số nơi trên đất Châu Âu
Tính thịnh hành của Serenade trong lịch sử âm nhạc là sáng tác dành cho những dàn hoà tấu lớn . Đã có rất nhiều nhạc sĩ thiên tài sáng tác về thể loại Serenade như Tchaikovsky , Josef Suk viết dành riêng cho nhạc cụ dây . Richard Strauss , Max Reger , Edward Elgar , Jean Sibelius … viết Serenade theo dòng lãng mạn . Có thể kể đến những bản Serenade nổi tiếng như Serenade cho Tenor , tù và và đàn dây của Benjamin Britten , Serenade cho Piano của Stravinsky , Serenade cho kèn Baritone và tốp ca của Arnold Schoenberg . Nhưng có thể nói bản Serenade phổ biến và nổi tiếng nhất , đi sâu , lắng đọng trong lòng người yêu âm nhạc là bản Serenade của Franz Schubert được viết vào năm 1826 . Thời gian trôi qua nhưng bản Serenade ấy vẫn bất tử , vẫn lay đọng mãnh liệt với mỗi người khi lắng nghe .
Serenade
Leise flehen meine Lieder Durch die Nacht zu dir; In den stillen Hain hernieder, Liebchen, komm zu mir! Flüsternd schlanke Wipfel rauschen In des Mondes Licht; Des Verräters feindlich Lauschen Fürchte, Holde, nicht. Hörst die Nachtigallen schlagen? Ach! sie flehen dich, Mit der Töne süßen Klagen Flehen sie für mich. Sie verstehn des Busens Sehnen, Kennen Liebesschmerz, Rühren mit den Silbertönen Jedes weiche Herz. Laß auch dir die Brust bewegen, Liebchen, höre mich! Bebend harr’ ich dir entgegen! Komm, beglücke mich!
Dịch ý
Những bài hát của tôi nhẹ nhàng cầu khẩn Xuyên qua đêm thâu; Trong sự lặng yên dưới những lùm cây, Người yêu, hãy đến bên tôi Những ngọn cây mảnh dẻ lấp lánh khe khẽ thì thầm trong ánh trăng; Holde, đừng e ngại những kẻ bội phản rình rập lắng nghe. Người có nghe những cơn gió đêm? Ồ, chúng đang khẩn cầu người, Với giọng than vãn ngọt ngào Chúng đang khẩn cầu tôi. Chúng hiểu được nỗi khát khao trong lồng ngực, Chúng biết nỗi đau của tình yêu, Với những nốt nhạc bạc, chúng làm rung động từng trái tim yếu đuối. Hãy để lồng ngực rung lên Yêu thương, lắng nghe tôi! Run rẩy, tôi chờ đợi Hãy đến, cho tôi hạnh phúc!
Lời dịch nghĩa bằng tiếng Anh của phần lời bản “Serenade”:
My songs quietly implore you through the night; down to the silent wood my love, come to me!
The tree tops whisper in the light of the moon; Don’t be afraid, my love, no-one will observe us.
Can you hear the nightingales? Oh! They implore you, their sweet lament pleads with you on my behalf.
They understand the yearning I feel, they know love’s tor ture, with their silvery notes they touch every soft heart.
Chuyển thể sang lời Việt
Đợi chờ em, trong màn đêm quạnh vắng. Muôn tiếng thanh âm cung đàn ngân… Mượn làn gió, mang về bên lầu vắng … Nơi xa, réo rắt câu tình ca Hòa trong tiếng chim muông đang thầm thì … Chim còn ríu rít đê mê Như lời anh nói thầm thì Và bên ấy … Vang trong đêm vọng về, bao lời đắm đuối say mê Của người tha thiết tình si… Xào xạc tiếng gió lùa trên cành lá. Gió hát như tim anh rộn vang Thì xin làn gió nhắn gửi tâm sự đến nơi xa. Em hay chăng tình ta? Và khi vẵng nghe chim muông rộn ràng, nghe lời gió hát mênh mang Đấy lời anh tiếng than van. Đừng e ấp, nói với nhau bao lời… Tim nồng chan chứa hân hoan Yêu người mãi với thời gian Lòng này muôn muôn kiếp sẽ yêu người … Thề nguyền mãi không rời …. Nhé … khi đã yêu ai rồi yêu suốt đời … Nơi này anh vẫn mong chờ … Mong chờ em mãi, người ơi!
Đó là nguyên bản của Serenade bằng tiếng Đức . Người nghệ sĩ với cuộc đời mỏng manh, ngắn ngủi ấy mang theo một vết thương khắc dấu trong trái tim mình nhưng vẫn bỏng cháy khao khát cuộc sống , khao khát yêu thương . Serenade với sự dung dị nhưng siêu phàm , giản đơn nhưng đằm thắm . Khúc dạo đầu bằng tiếng Violin mang Serenade chợt uốn cong lên rồi rơi xuống tận cùng của tâm hồn . Những tiết tấu nhảy lên cao trào cùng với phần đệm hoà âm đầy xao động . Khi tiếng hát ngân lên cất tiếng gọi người tình , nhạc dâng lên cao rồi chìm sâu xao xuyến trong nỗi sầu muộn khôn nguôi . Nhưng đâu đó vẫn thảng hoặc niềm hy vọng , hy vọng ngay trong niềm tuyệt vọng , trong sáng nhưng mãnh liệt , nồng nàn mà thiết tha
Tôi thích hơn cả khi được lắng nghe Serenade cất lên với âm chủ Violin và phần nhạc đệm Piano . Bởi giản đơn khi ấy tôi được thả hồn với nỗi buồn , với những buổi chiều theo trí tưởng tượng . Và có lẽ tiếng Violin mới có thể chuyển tải đầy đủ hết được hồn của Serenade , cứ chậm buồn , cứ vang vọng , cứ da diết , cứ dần buông như ánh nắng cuối ngày rải trải lên màu lá , chút bâng khuâng cứ lay lắt hồn người . Bởi khúc nhạc không lời nên không gian chợt mênh mông im vắng . Và cũng vì không lời nên âm điệu huyền ảo , lắng đọng hơn
Tuy nhiên cùng với dòng chảy của thời gian , cùng với sự bất tử của mình . Serenade được chuyển nghĩa qua nhiều ngôn ngữ , và được chuyển thể thành muôn vẻ những câu chuyện tình khác nhau. Và một trong những chuyển thể ấy tôi tìm thấy sự đồng cảm cho riêng mình . Khi nhạc sĩ P D viết lời trên nền nhạc Serenade , Chút lãng mạn và không gian của một buổi chiều xa xưa chợt nhiên tái hiện
Đợi chờ em , anh ngỏ lời ước nguyện Đến bên em khi chiều buông Cảnh rừng vắng , nơi rừng chiều lắng Tiếng ca yêu đương đang chờ mong Kìa trong lá , thoáng nghe lời thì thầm Chim làm xao xuyến trăng thanh Chim làm rung trái tim anh Nào ai thấy , ai nghe được nào ! Tình ta hoà trong ánh trăng sao Yêu … lòng ta đến tìm nhau
Một không gian chờ đợi , một con tim chờ đợi , một tình yêu khao khát nỗi chờ mong . Lời ước nguyện hình như vẫn chìm sâu hun hút , vẵn im vắng như chưa từng được thốt lên . Tình yêu và nhịp đập yêu thương của trái tim hẳn nhiên cũng như cảnh rừng vắng, chất chứa khôn nguôi những điều không thể nói . Nhưng tiếng nói của tình yêu đâu hẳn cứ phải bật thốt thành lời , khi mà tình yêu đơn giản là những điều không thể nói . Hãy cứ để lời nhắn gửi ấy được tan vào không gian , tan vào thời gian , tan vào nỗi chờ mong , tan vào tiếng lao xao của lá non thì thầm xao xuyến . Đến một lúc nào tình yêu như dẫn lối hai tâm hồn hoà tiếng gọi tìm nhau trên lối vắng hẹn hò
Để lòng anh vỗ cánh vút bay lên Người yêu hỡi có hay … Trái tim anh đang như biển dâng sóng trào Hỡi nàng xuân ngát thương yêu Anh chờ em hát cùng anh Khúc ca ban chiều …
Lời ca vút cao lên như tình yêu chắp cánh ,thăng hoa theo từng cung bậc trào dâng . Chỉ có tình yêu mãnh liệt và mênh mông như đại dương mới có thể miên man dâng trào như chưa từng mỏi mệt . Chỉ có thể như mùa xuân mới thẳm xanh một tình yêu tận cùng mướt mát , tận cùng đam mê , tận cùng sống , tận cùng niềm hy vọng . Và cũng chỉ có tình yêu , sự khắc khoải mới có thể miên man từng câu hỏi “ Người yêu hỡi có hay …”
Câu hỏi ấy chảy dài như vô tận cho đến khi nào “ người yêu “ biết đến mới thôi . Như từng đợt gió , từng đợt nắng , từng cánh chim … chạm vào bóng tối . Để niềm thương yêu , nỗi nhớ nhung da diết hoá thân vút lên và lặng xuống như Khúc ca ban chiều , chầm chậm buông khi ánh ngày đang tắt . Như con tim tìm thấy được con tim . Như đôi lứa tìm thấy nhau trong mòn mỏi đợi chờ . Những lời nỉ non, thổn thức của ca từ quyện với một giai điệu lãng mạn, quyến rũ, bản Serenade của Schubert là một thông điệp tình yêu chuyển tải bẳng âm nhạc tuyệt vời, một bài lied hoàn hảo cho những tình nhân tỏ tình khi màn đêm đang bắt đầu buông
Có nhiều khi người nghệ sĩ viết nên một tác phẩm vĩ đại chỉ trong một thoáng giây . Bởi vào tích tắc thời gian ấy tâm hồn người nghệ sĩ đã nhập thể vào tiếng gọi rung động và hình dáng của thiên tài . Franz Schubert cũng vậy , theo Von Hellborn người viết về cuộc đời của Schubert , bản Serenade này ra đời vào một ngày Chủ Nhật năm 1826. Khi ấy, Schubert cùng một vài người bạn từ Potzleinsdorf trở về thành phố. Đi qua Wahring, ông thấy bạn mình là Tieze đang ngồi bên chiếc bàn trong khu vườn của Zum Biersack. Trước mặt Tieze là một cuốn sách, và Schubert lật lướt qua nó. Đột nhiên, ông dừng lại, chỉ vào một bài thơ của Ludwig Rellstab, nói như reo lên: “Một giai điệu tuyệt vời vừa vang lên trong đầu tôi, giá mà tôi có giấy chép nhạc bây giờ”. Herr Doppler liền vẽ một vài khuông nhạc trên mặt sau tờ hóa đơn, và trong sự huyên náo của quán ăn ngày Chủ nhật, giữa tiếng dao nĩa, giữa những người bồi bàn hối hả chạy qua lại, Schubert đã viết nên bản Serenade bất hủ của mình . Và cho những tâm hồn người đang và mãi rung động , thổn thức trước tình yêu .
Franz Schubert chỉ sống một cuộc đời rất ngắn ngủi 31 năm nhưng đã kịp để lại cho đời một khối lượng kiệt tác đồ sộ ở nhiều thể loại. Và trung tâm của khối kiệt tác ấy, nổi bật nhất chính là bản Serenade, mà người ta đã quen gọi liền với tên ông: Serenade Schubert…
Từ một câu chuyện tình rất đỗi trớ trêu của Franz Schubert…tới bài Serenade bất hủ
Franz Schubert (1797-1728) là nhạc sĩ thiên tài thuộc dòng nhạc lãng mạn
Bài Serenade bất hủ này là Franz Schubert sáng tác là để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu trộm nhớ. Ở châu Âu ngay từ thời trung cổ các chàng trai thường có lối tỏ tình bằng cách mượn âm nhạc, ban đêm đến đứng dưới cửa lầu “người đẹp” tự thể hiện bằng tiếng đàn và giọng hát của chính mình.
Những bài nhạc lãng mạn này gọi là “serenade”. Serenade thời Trung cổ và Phục Hưng được biểu diễn không theo một hình thức đặc biệt nào, ngoại trừ nó được một người hát tự đệm bằng nhạc cụ có thể mang theo được ( guitar, mandolin… ).
Để làm cho nàng bất ngờ, Schubert nhờ một bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó, người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho buổi biểu diễn lãng mạn và độc đáo. Thế nhưng, Schubert lại quên không đến. Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng yêu chính chàng ca sĩ, chứ không dành trái tim cho Schubert.
Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng yêu chàng ca sĩ, chứ không yêu Schubert
Lời bài hát vô cùng da diết như cõi lòng của người nhạc sĩ …
Lời Việt dịch từ nguyên gốc tiếng Đức:
Đêm khuya vẳng tiếng anh hát thầm thì, dưới chòm cây tĩnh lặng. Đến đây hỡi người! Gió đùa lá xào xạc dưới trăng; đừng sợ chi kẻ phản trắc rình rập đâu đó. Em nghe chăng tiếng họa mi vang rền. Chúng gọi em đấy, chúng chuyển lời của anh cho em, vì chúng hiểu nỗi khắc khoải con tim, nỗi đau tình si. Giọng hót vang của chúng làm mỗi trái tim nồng nàn bớt thổn thức. Người yêu hỡi, em hãy để cho tiếng chim ca trong tim… Anh đang run rẩy, bồi hồi chờ em nơi đây. Đến đây chúc mừng anh!
Chim sơn ca chỉ hót ban ngày, chỉ họa mi mới hót ban đêm, sơn ca hót vang lừng khi đang bay, họa mi hót vang cả cánh rừng.
Lời bài hát tiếng Việt:
(Nhạc sĩ Phạm Duy dịch)
Đợi chờ em, trong màn đêm quạnh vắng. Muôn tiếng thanh âm cung đàn ngân…
Mượn làn gió, mang về bên lầu vắng… Nơi xa, réo rắt câu tình ca
Hòa trong tiếng chim muông đang thầm thì… Chim còn ríu rít đê mê
Như lời anh nói thầm thì.
Và bên ấy… Vang trong đêm vọng về, bao lời đắm đuối say mê
Của người tha thiết tình si…
Vang trong đêm vọng về, bao lời đắm đuối say mê, của người tha thiết tình si
Xào xạc tiếng gió lùa trên cành lá. Gió hát như tim anh rộn vang
Thì xin làn gió nhắn gửi tâm sự đến nơi xa. Em hay chăng tình ta?
Và khi vẳng nghe chim muông rộn ràng, nghe lời gió hát mênh mang
Đấy lời anh tiếng than van.Đừng e ấp, nói với nhau bao lời… Tim nồng chan chứa hân hoan
Yêu người mãi với thời gian
Lòng này muôn muôn kiếp sẽ yêu người… Thề nguyền mãi không rời….
Nhé… khi đã yêu ai rồi yêu suốt đời…
Nơi này anh vẫn mong chờ… Mong chờ em mãi, người ơi!
Bình luận của giới nghệ thuật về Serenade Schubert: Một bức tranh toàn bích
“Những lời nỉ non, thổn thức của ca từ quyện với một giai điệu lãng mạn, quyến rũ, bản Dạ Khúc Schubert là một thông điệp tình yêu chuyển tải bẳng âm nhạc tuyệt vời, một bài nhạc hoàn hảo cho kẻ tỏ tình trong đêm.
Nhưng hơn thế, nhạc phẩm “Dạ Khúc” của Schubert là một bức tranh toàn bích, sâu lắng… mang dáng dấp hơi thở không chỉ của thời đại ông mà của muôn mọi thời đại. Nhạc sĩ thiên tài đã nói lên tiếng lòng mình trong thời khắc đêm về, ngoài niềm khắc khoải thường tình về tình yêu đôi lứa, còn như thân phận con người nhỏ nhoi đầy bất trắc trước mênh mông vũ trụ.
Số phận con người nhỏ nhoi bất trắc trong vũ trụ mênh mông
Bài nhạc có giai điệu rất đẹp, trữ tình, lai láng nhưng không trầm mặc, buồn nhưng vẫn phảng phất đâu đó niềm hy vọng và hoài bão hướng thiện (tác dụng bởi việc chuyển cung từ thứ sang trưởng ở đoạn kết). Schubert như nói lên tiếng lòng của muôn người, muôn thế hệ…”
Massachusetts, tên chính thức: Thịnh vượng chung Massachusetts, là tiểu bang đông dân nhất của khu vực New England thuộc vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Phía đông Massachusetts giáp với Đại Tây Dương, phía nam giáp với các tiểu bang Connecticut và Rhode Island, phía bác giáp với New Hampshire và Vermont, và phía tây giáp với tiểu bang New York. Thủ đô của Massachusetts và thành phố lớn nhất của New England là Boston. Hơn 80% dân số của bang Massachusetts sống ở vùng đô thị Boston, khu vực có nhiều ảnh hưởng đến lịch sử và kinh tế Hoa Kỳ. Cảng Hàng không Quốc tế Boston-Logan là cảng hàng không tấp nập nhất của khu vực New England. Từ một vùng đất mậu dịch và nông nghiệp-thủy sản, trong cuộc Cách mạng Công nghiệp, tiểu bang Massachusetts đã trở thành một trung tâm sản xuất. Trong thế kỉ thứ 20, nền kinh tế của Massachusetts chuyển từ sản xuất sang dịch vụ. Hiện nay, Massachusetts là khu vực tiên phong trên thế giới trong các lĩnh vực như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, tài chính, giáo dục bậc cao và giao thương hàng hải.
Massachusetts cũng là một tiểu bang của Hoa Kỳ ( nước Mỹ ) nơi có trường đại học nổi tiếng thế giới .
Massachusetts cũng là tên một bài hát của nhóm nhạc Bee Gees
Nếu như kỹ thuật hát giọng gió (giọng giả thanh) giúp cho nhiều ngôi sao đương đại nam, nữ gây tiếng vang dễ dàng thì vài thập niên trước, không ít khán giả lại tẩy chay cách hát độc đáo này.
Ban nhạc anh em Bee Gees là một trong những trường hợp đó.
Với tai nghe thông thường, sẽ hơi khó phân biệt giọng óc (head voice) và giọng mái (falsetto). Tuy nhiên nếu là tín đồ của âm nhạc thì chắc chắn bạn sẽ nhận ra giọng mái tương đối mỏng, nhẹ, âm sắc yếu và dễ bị mờ trên nền nhạc hơn.
Có lẽ vì những khiếm khuyết đó mà thời gian đầu, người nghe khó chấp nhận một nam ca sĩ có thể hát giọng mái suốt cả bài như Robin Gibb (Juliet là một ví dụ). Tuy vậy, với khả năng hát giọng falsetto, nhiều ca sĩ có thể lên cao hơn quãng giọng ngực thông thường của mình.
Nhiều người thường gọi falsetto là giọng mái vì cơ bản trong kỹ thuật hát này có yếu tố “false” (tiếng Anh nghĩa là sai) nhằm nhấn mạnh âm thanh tạo ra giống như âm sắc của nữ, dù nó được phát ra từ một giọng ca nam.
Để hát được falsetto, người ta phải sử dụng viền hoặc mép dây thanh quản để tạo âm thanh. Viền hoặc mép dây thanh quản rung nhanh nhưng không khép lại hẳn vì phải để cho không khí tràn qua, tạo ra âm thanh cao như tiếng gió, tiếng sáo…
Feel I’m goin’ back to Massachusetts, Something’s telling me I must go home. And the lights all went down in Massachusetts The day I left her standing on her own.
Tried to hitch a ride to San Francisco, Gotta do the things I wanna do. And the lights all went down in Massachusetts They brought me back to see my way with you.
Talk about the life in Massachusetts, Speak about the people I have seen, And the lights all went down in Massachusetts And Massachusetts is one place I have seen.
I will remember Massachusetts…
Dịch ý
Ta thấy mình như về lại miền Massachusetts Thầm thì với ta đã đến lúc về nhà Và mọi ngọn đèn vụt tắt nơi miền Massachusetts Ngày ta đã bỏ lại nàng trơ trọi, đơn côi…
Đi nhờ chuyến xe đến San Francisco hoa lệ Ta phải làm những gì ta hằng muốn được làm Và mọi ngọn đèn chợt vụt tắt nơi miền Massachusetts Đưa ta trở về những tháng ngày nàng vẫn bên ta…
Hãy kể về cuộc sống yên bình miền Massachusetts Kể về những kiếp người bước qua cuộc đời ta Và mọi ngọn đèn tắt hết rồi, miền Massachusetts Massachusetts giờ chỉ là một miền đất mà ta đã đi qua
Nhưng ta sẽ nhớ mãi về người, miền Massachusetts….
Một trong những nhà triết học nổi tiếng nhất ở nước Hy Lạp cổ , được mệnh danh là “thiên thần Platon” ( 428 – 348 trước công nguyên ), học trò của Socrate ( 470 – 399 trước công nguyên ) và thầy học của Aristote ( 384 – 322 TCN ) cảnh báo rằng “không ai được vào trường học của ông nếu không phải là một nhà Toán học. Platon đã từng là một nhà khảo cổ học: theo ông thì lục địa Atlantide đã hiện diện ở Đại Tây Dương , đối diện với eo biển Gibraltar, rồi bị chìm sau một trận động đất . Mặt khác , Platon có một quan niệm Toán học về vũ trụ: Theo ông , vũ trụ là một thể thống nhất hài hòa , trong đó các tỉ lệ hình học tương xứng với nhau. Sau cùng , Platon khẳng định rằng thế giới cảm giác chỉ là bề ngoài , che đậy thế giới trí tuệmới là thế giới chân lý thực sự . Nên nhớ rằng Aristote, một học trò của Platon , đã nói câu nói bất hủ , qua bao nhiêu thế kỷ : “Chỉ có cái gì tổng quát mới là khoa học ” , trong khi về Văn chương người ta lại ca tụng cái gì độc đáo .
Một vết tích của ảnh hưởng Platon trong giáo dục triết học ở Pháp là thí sinh dự thi thạc sĩ ( agre’gation ). Triết học phải có một chứng chỉ khoa học . Nhà triết học Henri Bergson ( 1859 -1941 ), giải nobel văn chương 1927, đã từng viết ” Triết học là một môn học có nhiều điểm liên quan đến khoa học” . Ngày nay ở Hoa Kỳ , tất cả các học vị tiến sĩ được gọi tắt là “Ph.D” ( Philosophical Doctorate ).
Auguste Comte ( 1798 – 1857 ) người đã khai sinh ra thuyết “positivisme” ( thuyết tích cực ) là một nhà khoa học trở thành triết học gia .
Không nên lẫn thuyết của Auguste Comte với thuyết khoa học ( scientisme ) của Ernest Renan (1823 – 1892 ): thuyết thứ nhất dựa trên quan sát và thí nghệm các hiện tượng , thuyết thứ hai cho rằng con người có thể đi tới chân lý tuyệt đối bằng lý luận khoa học .
Nhà triết học Henri Bergson suốt đời ông bị ám ảnh bởi suy nghĩ rằng chúng ta có một quan niệm sai lầm về bản chất thực sự của thời gian . Chúng ta thay cái bản chất đó bằng một mô hình đều đều , hình học , một chiều trong các đồng hồ . Thời gian thực sự đa dạng mới đưa tới tiến bộ , chế tạo các dạng mới , các phát minh .
Buffon ( 1707 – 1788 ) nhà vật lý Pháp từ 1749 – 1789 ông soạn thảo xong bộ sách vạn vật học gồm 36 tập và 1753 ông cho xuất bản cuốn “luận bàn về hành văn” . Ông là nhà khoa học đã nói hai câu bất hủ : “Lối hành văn , chính là người ” và “Thiên tài chỉ là một sự kiên nhẫn dài”
Thi sĩ Jose’ Maria de He’re’dia (1842 – 1905 ) lại là một nhà khoa học kiểu khác .
Thơ ông có ba đặc điểm :
– Tính cách khách quan , chống lãng mạn , ủy mị , sướt mướt .
– Liên kết nghệ thuật với khoa học : Nhà thi sĩ không nhắc lại quá khứ bằng trí óc tưởng tượng mà bằng sưu tầm tài liệu .
-Bài thơ phải là một mỹ phẩm , tính cách hoàn hảo của hình thức : tính trong sáng , họa vần phong phú , các câu thơ có âm điệu , cẩn trọng như một họa sĩ , một nhà điêu khắc .
Tản Đà cũng có hai câu thơ đầy tính khoa học trong bài “Thề non nước”
“Non cao đã biết hay chưa,
nước tuôn ra biển lại mưa về nguồn”
Xuân Diệu là tác giả truyện ngắn “Phấn thông vàng ” , trong đó ông so sánh tình yêu man mác của một thanh niên với phấn thông vàng phát ra từ các cây thông và có thể đi xa hàng trăm kilomet.
Truyện cổ tích là những câu chuyện dành cho thế giới tuổi thơ và những đứa trẻ luôn thích những câu chuyện cổ tích thần tiên đó . Tôi cũng là một đứa trẻ say mê truyện cổ tích đến nỗi chỉ muốn mình mãi mãi lạc vào thế giới đẹp mê hồn đó .
Các khía cạnh của câu chuyện Cô bé Lọ Lem có lẽ có nguồn gốc từ cổ tích xa xưa.
Cinderella là cô bé lọ lem và cô bé lọ lem là một truyện cổ tích trong bộ truyện cổ Grim ( Truyện cổ Đức ) Truyện kể về cô bé lọ lem mồ côi mẹ , cô ở với dì ghẻ bị mụ dì ghẻ và những đứa con riêng của mụ hành hạ . Truyện có nội dung giống truyện Tấm Cám ( cổ tích Việt Nam )
Truyện cổ tích này đã được chuyển thể thành phim hoạt hình và nâng tầm nghê thuật lên một tầng cao mới . Bộ phim được hãng Walt Disney vẽ phối cảnh rất đẹp và tôi thích nhất là cái đoạn phim lúc 12 h đêm khi bà tiên biến những chú chuột thành cỗ xe ngựa để làm cỗ xe chở Lọ Lem đến lâu đài của hoàng tử khiêu vũ . Khi qua khỏi 12h đêm phép nhiệm màu biến mất mọi thứ lại trở về lúc ban đầu , ta sực tỉnh nuối tiếc và mơ mộng thêm một lần nữa.
Cinderella
Paul Anka
Cinderella cinderella, pretty pretty pretty cinderella It’s late now While your lips were kissin’ mine I forgot to watch the time And i’m sorry Cinderella cinderella, pretty pretty pretty cinderella I promise Promised we’d be home on time I bet cha done think It was just a line Cinderella Twelve o’clock, twelve o’clock Was what we bargained for What are we gonna tell your mom and dad When we’re at your front door Cinderella cinderella, pretty pretty pretty cinderella Have faith now I am sure the one above Will preserve our lasting love Cinderella It’s late now I promise Twelve o’clock, twelve o’clock Was what we bargained for Now what do i tell Your mother and dad When were at your front door Oh cinderella cindrella, pretty pretty cinderella Have faith now I am sure the one above Will preserve our lasting love Cinderella Whoa such a oretty pretty pretty pretty pretty pretty cinderella
Dịch ý
Cô bé lọ lem Cinderella, dễ thương dễ thương dễ thương Cô bé lọ lem Giờ đã muộn rồi Trong khi đôi môi nàng hôn lên đôi môi anh Anh quên béng cả việc xem giờ giấc Và anh xin lỗi nhé Cô bé lọ lem Cinderella, dễ thương dễ thương dễ thương Cô bé lọ lem Anh hứa đấy Rằng mình sẽ về nhà đúng giờ mà Anh dám cá với em rằng anh nghĩ đó chỉ là một ranh giới Cô bé lọ lem 12 giờ đêm, 12 giờ đêm Đó là điều ta đã thỏa thuận Ta sẽ nói gì với bố mẹ nàng đây Khi ta về trước cửa nhà Cô bé lọ lem Cinderella, dễ thương dễ thương dễ thương Cô bé lọ lem Giờ đã có lòng tin Anh chắc rằng đấng tối cao sẽ bảo vệ tình ta cho đến phút cuối Cô bé lọ lem Giờ đã muộn rồi Anh hứa đấy 12 giờ đêm, 12 giờ đêm Đó là điều ta đã thỏa thuận Ta sẽ nói gì với bố mẹ nàng đây Khi ta về trước cửa nhà Oh cô bé lọ lem Cinderella, dễ thương dễ thương dễ thương Giờ đã có lòng tin Anh chắc rằng đấng tối cao sẽ bảo vệ tình ta cho đến phút cuối Cô bé lọ lem Whoa thật là một cô bé lọ lem dễ thương làm sao áh !
Người đẹp và quái vật là câu chuyện cổ tích đầu tiên mà tôi đọc và rất thích . Câu chuyện làm tôi nhớ đến người bạn thân là bạn Bích . Bạn Bích nói với tôi rằng mày đọc truyện này mày mê luôn đó và đúng như vậy .
Ngày xưa có một ông thương gia giàu có có ba cô con gái. Một hôm phải đi công tác xa và hỏi các con muốn gì. Cô thứ nhất và cô thứ hai muốn trang sức còn cô út tên là Belle muốn một bông hồng.
Người cha đã đi nhưng trong khi vận chuyển hàng hóa tàu của ông gặp nạn và đã mất hết tài sản. Ông bị lạc đến một tòa lâu đài . Ở đó ông được tiếp đãi rất chu đáo và đã ngủ một đêm tại đó. Sáng hôm sau ông ra vườn tìm bông hồng cho Belle và bị quái thú phát hiện. Sau khi kể mọi chuyện quái thú ra lệnh phải đưa con gái út đến nếu không ông sẽ bị giết. Về nhà thương gia kể lại mọi chuyện cho Belle và cô đã đến với quái thú. Lúc đầu Belle rất sợ quái thú nhưng rồi quen dần và họ trở nên thân thiết với nhau.
Cái chi tiết đáng giá nhất trong câu chuyện với tôi là ông thương gia lạc vào tòa lâu đài rất đẹp , phòng ăn có đồ ăn và phòng ngủ thì có giường ngủ , ông được tiếp đãi nồng hậu nhưng không thấy chủ nhân của lâu đài . Nếu như ông không hái bông hồng cho cô út thì câu chuyện sẽ như thế nào nhỉ ?
Tuy nhiên có một câu chuyện gần giống với truyện này có tựa là “Chim Sơn Ca nhảy nhót hót véo von” Tôi thích truyện đó hơn.
Beauty And The Beast
Celine Dion
Tale as old as time True as it can be Barely even friends Then somebody bends Unexpectedly
Just a little change Small to say the least Both a little scared Neither one prepared Beauty and the Beast
Ever just the same Ever a surprise Ever as before and Ever just as sure As the sun will rise…
Tale as old as time Tune as old as song Bitter-sweet and strange Finding you can change Learning you were wrong
Certain as the sun (certain as the sun) Rising in the east Tale as old as time Song as old as rhyme Beauty and the Beast
Tale as old as time Song as old as rhyme Beauty and the beast
ohhh…
Beauty and the Beast…
Một câu chuyện thật xưa Nhưng vẫn thật như nó có thể Bắt đầu là tình bạn Rồi sau đó một người bị khuất phục Một cách hoàn toàn bất ngờ…
Chỉ một sự thay đổi nhỏ thôi Và lời nói rất ít Cả hai người đều có chút lo lắng Không ai được chuẩn bị gì cả Người đẹp và quái thú…
Như cùng một lúc Như một sự ngạc nhiên Như chưa từng bắt đầu Và cũng chắc chắn Như mặt trời mọc ở hướng đông…
Một câu chuyện thật xưa Với giai điệu có từ khi mọi người bắt đầu ca hát Trải đắng cay, ngọt ngào lẫn lạ lẫm Bạn sẽ nhận ra mình có thể thay đổi Và nhận ra rằng mình đã sai…
Hiển nhiên như mặt trời mọc ở hướng đông Một câu chuyện thật xưa Một bài hát có từ khi âm nhạc ra đời Người đẹp và quái thú…