Tu le sais par un simple regard Cet amour dont je brûle pour toi Il éclate partout, tu peux le voir
Tout ce que je peux être pour toi Moi, je dois le surprendre au hasard Je dois guetter sans cesse tes joies Car de toi je ne peux rien savoir
Mais pourquoi tu aimes cette apparence Si pleine d'indifférence? Je t'aime et je veux le crier Je t'aime Je t'aime et ne peux le cacher
Tout ce que tu peux être pour moi Moi, pourtant je croyais le savoir Mais chaque fois que tombe le soir Mon amour est plus grand, il est immense
Tu aimes cette apparence Si pleine d'indifférence Je t'aime et je veux le crier Je t'aime Je t'aime et ne peux le cacher
Tout ce que tu peux être pour moi Moi, pourtant je croyais le savoir Mais chaque fois que tombe le soir Mon amour est plus grand, il est immense Il est immense
Những thương yêu em mong chờ riêng nơi anh Có bao nhiêu, chỉ một ánh mắt đắm đuối
Trái tim em nguồn tình yêu đang dâng cao Làm vụt tan đi thân em trong khát vọng
Phút giây em đang mong chờ riêng mong manh Vút qua nhanh như một thoáng ánh chớp ngắn Khó mong giữ lòng niềm vui trong cơn mơ Tình nồng say trong men cay đã trao anh, hiến dâng anh Nhưng hỡi người tình yêu giống như trò chơi Mãi hững hờ gây đau đớn trong em Em muốn thét gào, em chỉ mãi yêu mình anh Muốn kiếp đợi yêu thiết tha Tình yêu đó như ngọc biếc đang tỏa sáng Những thương yêu em mong chờ riêng nơi anh Ngỡ như anh cũng hiểu biết rất rõ Cứ mỗi khi buổi chiều xuống nắng tắt Thì tình em thêm mênh mông trong muôn thiết tha Và lòng càng thiết tha, Và lòng càng thiết tha
Tình yêu có thể đến bất thần bởi một khoảnh khắc lay động, sự giao cảm tình cờ giữa hai con người làm mở ra một cõi giới đáng mơ ước. Tình ái, bề ngoài đó là ham muốn chinh phục, gắn kết và giao hòa về thể xác và linh hồn, nhưng trong bản chất đó là khát vọng bản thể được nâng lên, làm chủ một phương thế giới.
Có một tối nọ tôi nói chuyện online với bạn My Dear ( mod của BGVN ngày đó ) .... tôi bảo rằng tôi muốn nhiều thứ lắm , muốn nhiều lắm và đam mê nhiều ơi là nhiêu rồi tôi hỏi lại vậy chứ My Dear muốn gì nè ?
Nàng trả lời tôi một câu ngất ngây : Yêu và được Yêu ( tôi không có gì nghi ngờ ở lỗ tai + đôi mắt của tui cả ) My Dear muốn được yêu trước , sau đó sẽ yêu lại nếu không yêu thì làm bạn cũng được.
Còn tôi thì chỉ muốn yêu trước , người ta không yêu lại sẽ ...tính sau .
Trời ạ ! Nếu tôi yêu đàn ông thì tôi đã được yêu nhưng thật khổ thân tôi , tôi lại yêu phụ nữ nên tôi không được yêu My Dear ạ.
My Dear Cảm ơn em đã dắt tôi tới gặp Orchis ở quán cafe soho nhá , bởi chỉ có em mới giúp tôi gặp Orchis còn những người khác mới ngán làm sao.
“Cái mà người đàn bà muốn nhất là gì?”
Là trong vòng tay của người phụ nữ mình yêu
Là tan vỡ trong vòng tay người phụ nữ mình yêu
Má Orchis hỏi tôi : Bạn thích tấm hình này à?
uh ...( trong lòng đầy nghi ngờ , không biết mình thích tấm hình hay thích người sử dụng tấm hình này nữa )
Orchis bắt đầu nở hoa ...
Tôi nói tấm hình đẹp quá mà nhìn sao thấy nó cong queo giữ vậy...
Orchis : Cong queo vì hết lòng với tình yêu của nó đó ( cười sặc sụa )
Cải lương không phải lĩnh vực yêu thích của tôi , tôi không thích loại hình nghệ thuật này. Cứ mỗi lần nghe ai đó nói chuyện dông dài hay có những chuyện người ta bị than thở gì đó thì người ta thường bảo người hay than thở là người ca cải lương.
Cải lương có thể chỉ là loại hình nghệ thuật hát hò bình dân của miền tây nam bộ.Đây là bộ môn nghệ thuật kết hợp hình thức biểu diễn, trình diễn tiên tiến, có học hỏi, thay đổi mới mẻ, cải tiến hơn để phù hợp với thời đại, một sự đi lên và kết hợp của những bộ môn nghệ thuật truyền thống như Hát Bội, Đờn ca tài tử với kịch nghệ hiện đại.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia có nhận định: “Cải lương là một loại hình kịch hát có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam, hình thành trên cơ sở dòng nhạc Đờn ca tài tử và dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long, nhạc xưa cổ”
Có một vở cải lương xưa lắm rồi , có thể vở này diễn từ những năm đầu thập niên 80. Khi chúng ta có rất ít lựa chọn xem truyền hình hoặc những trò chơi giải trí khác. Với những người sống trong khoảng thời gian đó thì đây là vở diễn rất hay.
Tôi cũng xem vở diễn này và tên của vở diễn là Ngao Sò Ốc Hến ( Thanh Kim Huệ trong vai Thị Hến ). Vở diễn dựa trên truyện dân gian Ngao Sò Ốc Hến , truyện đả kích tầng lớp quan tham , địa chủ bóc lột dân nghèo.
Chúng tôi để ý tới một đoạn ngắn trong vở cải lương này; đó là lúc ông Huyện sau khi bị bà Huyện lột quần áo đã trốn trên cây để doạ ma bà Huyện , bà Huyện cùng với bà Đề và bà Lý đều sợ ma ( vì đi vào ban đêm ) nhưng lại muốn đánh ghen với thị Hến. Bà Huyện đã đọc câu thần chú cho đỡ sợ.
Câu thần chú gì vậy?
Om Mani Padme Hum
Trong kinh phật hay tụng ở chùa theo tiếng Hán Việt là Án Mani Bát Minh (di ) Hồng
Tôi cứ ngỡ câu chú này chỉ mới xuất hiện gần đây , khi các vị pháp sư Tây Tạng sang Việt Nam hành lễ. Những người ngày đó đã có câu chú này rồi.
Đây là câu thần chú nổi tiếng của Quan Âm Bồ Tát trong mật tông kim cương thừa.
Người yêu đầu tiên của tôi có một người bạn gái thân học chuyên ngành Đông Phương Học. Lần đó chúng tôi có nói chuyện với nhau chút xíu nhưng tôi chẳng biết chuyên ngành này nghiên cứu cái gì. Chỉ biết ngành đó tên Đông Phương.
Một thời gian rất lâu sau và cho đến bây giờ mới biết mình cũng đang nghiên cứu Đông Phương đây
Không học ở trường như cô bạn gái của Mai , chỉ có quyển sách mua được ở hội từ thiện rồi tự tìm hiểu thôi.
Quyển sách nằm trong bộ sách tư tưởng văn hoá Trung Quốc ; sách có bản quyền không được phép sao chép , phát tán. Chúng tôi chọn lọc bài từ trang web Đại Kỷ Nguyên.
Chín loại nhạc cụ làm vang danh nền nghệ thuật truyền thống của Trung Hoa
Trung Hoa từ xa xưa đã là một quốc gia của nghi lễ và âm nhạc, với nền văn minh âm nhạc có một lịch sử rất lâu dài. Khi âm nhạc cổ điển như một làn sóng trào dâng, ta có thể thấy như trong không trung xuất hiện những đỉnh núi cao, như dòng nước chảy ra từ khe suối, như cây trúc trong rừng lay động, như tuyết rơi mùa đông giá lạnh, như cuộc sống nghìn năm của con người trỗi dậy.
Đó là cảm giác không thể giải thích, là vô tận, là vẻ đẹp của âm nhạc cổ điển Trung Hoa. Đây là thứ nghệ thuật văn hóa tinh hoa Trung Hoa và là kho báu của nền văn minh thế giới. Vậy những loại nhạc cụ nào đã góp phần tạo nên đôi bờ cho dòng chảy âm nhạc ngàn năm đó?
1 Huyên (sáo huân)
Huyên là một trong những loại nhạc cụ từ thời cổ xưa, đã tồn tại khoảng 7.000 năm về trước. Tương truyền, cội nguồn của Huyên là công cụ của người đi săn có tên là “Đá Sao sa”. Ngày xưa, người ta thường thường buộc hòn đá hoặc hòn đất lên một sợi dây rồi ném chim ném thú, có hòn đá bên trong rỗng, khi ném gió lùa vào có thể phát ra âm thanh. Mọi người cảm thấy thú vị liềm đem thổi chơi. Sau này, mọi người thấy thú vị, bèn lấy quả bóng đó thổi chơi, sau đó dần dần nó trở thành một nhạc cụ.
Khoảng 4.000 đến 5.000 năm trước, Huyên đã phát triển từ có 1 lỗ âm thành có 2 lỗ âm, có thể thổi ra 3 âm điệu. Đến thời Xuân Thu, Huyên đã có 6 lỗ âm, có thể thổi ra 7 âm điệu hoàn chỉnh. Âm thanh của nó rất đơn giản mà độc đáo. Lúc đầu, Huyên phần lớn được làm từ đá và xương, sau đó dần dần phát triển thành làm bằng gốm. Huân có nhiều hình dáng, trong đó Huân hình quả lê phổ biến nhất. Cấu tạo của Huân ở trên hơi nhọn, dưới nở ra và có đáy phẳng. Phía trên cùng có 1 lỗ, phía trước có 5 lỗ, phía sau có 2 lỗ. Huân có thể thổi lên tiếng lớn như còi thét. Ống Huân lớn bằng trứng ngỗng được gọi là Nhã Huân, nhỏ bằng trứng gà thì gọi là Tụng Huân. Huyên đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử nghệ thuật nguyên thủy trên thế giới.
2. Cổ Cầm
Cổ cầm còn được gọi là dao cầm, ngọc cầm, tơ đồng hoặc thất huyền cầm, là một nhạc cụ truyền thống của tộc người Hán Trung Hoa. Có lịch sử hơn 3.000 năm thuộc bộ dây dạng gảy gồm có 7 dây đàn. Cổ cầm có âm vực rộng, âm sắc sâu lắng và tiếng vọng ngân dài. Cổ cầm không chỉ đơn giản là một loại nhạc cụ dùng để biểu diễn những khúc nhạc đi vào lòng người mà còn là phương tiện để mọi người tu thân dưỡng tính, giá trị của Cổ cầm còn ẩn chứa sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, trời đất và vũ trụ.
3. Biên chuông (chuông nhạc)
Biên chuông là nhạc cụ gõ có quy mô lớn của người Hán cổ đại Trung Hoa bao gồm một bộ chuông chùm bằng đồng. Biên chuông còn là một nhạc cụ quan trọng trong nhạc cung đình và nhạc lễ Trung Hoa từ thời cổ đại. Biên chuông được phát triển nhất trong thời đại Tây Chu. Trung Hoa là quốc gia đầu tiên sản xuất và sử dụng loại hình nhạc cụ này.
4. Địch tử (Sáo)
Địch Tử, hay còn được gọi là sáo trúc, là một nhạc khí truyền thống của Trung Hoa. Được sử dụng trong âm nhạc dân gian, opera, dàn nhạc quốc gia, dàn nhạc giao hưởng và âm nhạc hiện đại. Nó thường được chia thành khúc địch phía nam và bang địch phía bắc, ngày xưa chữ “địch” trong tiếng Hán cổ có nghĩa là : “ Rửa sạch sẽ” , vì tiếng sáo rất trong rất thanh. Sáo chủ yếu được làm bằng trúc, cũng có sáo làm bằng gỗ, ngọc bích hoặc các vật liệu khác.
Người giỏi thổi sáo đời xưa có Hoàn Y đời Tấn, lúc đương thờI tài nghệ sáo của ông được tôn là “Giang tả đệ nhất“, người đời nói bản cầm khúc “Mai hoa tam lông“ trong “Thần kỳ mật phổ” chính là cải biên từ bản nhạc sáo “Tam điệu” của ông.
Còn Lý Bạch với bản nhạc sáo “Xuân dạ thành lạc văn địch“ như sau:
Thùy gia ngọc địch ám phi thanh Tán nhập xuân phong mãn lạc thành Thử dạ khúc trung văn chiết liễu Hà nhân bất khởI cố quốc tình
Dịch nghĩa: Tiếng sáo ngọc nhà ai thầm bay ra Hòa vào gió xuân lan khắp Lạc thành Khúc nhạc đêm nay nghe thấy tiếng liễu gãy Ai mà không chạnh lòng niềm cố quốc .
Đủ cho thấy ma lực nghệ thuật của tiếng sáo này đến dường nào !
5. Đàn Tì Bà
Đàn tỳ bà vốn được vinh danh là vua của các loại nhạc cụ cổ Trung Hoa với 2.000 năm lịch sử; hình dạng của nó đối ứng với tam tài (Thiên, Địa, Nhân), ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và tứ quý (bốn mùa). Chiều dài của nó là 3 thước 5 tấc (khoảng trên dưới 1m), 3 thước tượng trưng cho tam tài, 5 tấc thể hiện ngũ hành, 4 sợi dây đàn lại thể hiện cho tứ quý. Kỹ thuật gảy đàn tỳ bà có độ khó khá cao.
Đàn Tỳ Bà được chế tác bằng gỗ cây ngô đồng. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn. Âm thanh của đàn Tỳ Bà trong sáng, vui tươi, thể hiện tính chất tươi sáng và trữ tình.
6. Đàn Nhị hồ
Đàn nhị hồ là một trong những loại nhạc cụ thuộc bộ dây (nhạc cụ gảy) chủ yếu của Trung Hoa, đã có lịch sử hơn 4.000 năm.
Âm sắc thuộc loại âm vực trung cao, tiếng đàn êm ái du dương, cảm xúc mãnh liệt bi tráng, là một loại nhạc cụ có thể đại biểu cho lịch sử đầy biến động và tình cảm tinh tế nồng nàn của dân tộc Trung Hoa.
Âm chất thường mang cảm xúc trầm lắng và bi thương. Đàn nhị hồ chỉ có hai sợi dây, một sợi là sợi ngoài, một sợi là sợi trong. Sự cọ sát giữa hai sợi dây đàn có độ dày khác nhau được buộc vào trục đàn tạo nên độ rung và phát ra âm thanh. Đối với những người mới học đàn nhị hồ thì hai vấn đề hóc búa là nắm vững âm chuẩn và kỹ thuật nhấn dây đàn, đặc biệt là khi chuyển từ vị trí âm vực thấp thành vị trí âm vực cao lại càng khó khống chế hơn.
7. Đàn Cổ Tranh
Đàn Cổ Tranh còn có tên là đàn thập lục, đây là một nhạc cụ dân tộc cổ đại được sinh ra và lớn lên gắn liền với nền văn hóa lâu đời Trung Hoa, có lịch sử hơn 2.500 năm. Đàn truyền thống có 16 dây nên nó có tên gọi là Thập Lục. Đàn Cổ Tranh thường được làm bằng gỗ cây phượng. Cấu tạo của đàn gồm một hộp âm thanh hình chữ nhật và một bề mặt trong một đường cong với chuỗi chặt chẽ, đó là một bộ có 13 dây trong triều đại nhà Đường và sau đó tăng lên 16. Ngày nay, có một số loại Đàn Cổ Tranh hiện đại có đến 21 dây. Âm sắc đàn cổ tranh trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui tươi.
8. Tiêu
Tiêu thường có dạng ống trụ tròn như sáo trúc, nhưng khi sử dụng lại để theo phương dọc và thổi dọc theo thân ống. Nó có âm sắc trang nhã, mộc mạc, phù hợp để diễn tả những giai điệu trữ tình, những tình cảm sâu sắc. Hai loại tiêu phổ biến nhất là C và D (tức tiêu đô và tiêu rê), các loại tiêu trầm hơn thường không phổ biến bằng vì khó sử dụng hơn: lỗ bấm cách nhau xa hơn, thổi tốn nhiều hơi…Tiêu cũng là một nhạc cụ thổi rất xa xưa của Trung Hoa cổ đại.
9. Không hầu hay đàn không
Không Hầu cũng là loại đàn gảy cổ xưa của Trung Quốc. Theo khảo cứu, đàn này lưu truyền đến nay đã hơn 2.000 năm. Ngoài sử dụng trong giàn nhạc cung đình ra, đàn Không Hầu còn lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Thế nhưng, cây đàn cổ xưa này từ sau thế kỷ 14 đã không còn lưu hành nữa, và dần dần không còn tồn tại nữa, mọi người chỉ có thể xem hình dáng một số đàn Không hầu từ trên bích họa và chạm nổi.
Đàn Không Hầu lưu hành vào thời cổ Trung Quốc chủ yếu là đàn nằm và đàn đứng. Đàn Không Hầu có hai hàng dây, mỗi hàng 36 dây, mỗi dây đều do trụ hình chữ nhân đỡ trên hộp đàn. Do hai hàng dây đàn đồng âm với nhau, khi gảy bản nhạc có giai điệu nhanh và âm rộng, rất tiện lợi, nó có thể gảy cùng lúc bằng hai tay, lại có thể dạo và đệm nhạc trong tầm âm vừa, là điều mà các lọai nhạc cụ khác khó mà so sánh được.
Các loại nhạc cụ cổ truyền Trung Hoa gắn liền với lịch sử hàng ngàn năm phát triển văn hóa và nghệ thuật của dân tộc, không gắn với tên tuổi của người sáng chế nào, nhưng có sức sống và sức biểu cảm hầu như vô tận, tương tự như tình cảm và trí tuệ của con người, không ngừng được bồi đắp và làm cho phong phú.
TỈNH TÁO THOÁT KHỎI SỰ CỘNG HƯỞNG TÂM LÝ CỦA SỐ ĐÔNG
Khi số đông cùng tham gia vào thì người ta lập tức bị cộng hưởng tâm lý và trở nên bảo thủ, cố chấp khủng khiếp. Ví dụ có người thấy một huynh đệ của mình vào bếp, mở tủ, thò tay bốc món gì đó vào miệng, vì nhìn không rõ nên người này mới hỏi:
- Này, anh ăn vụng gì đấy?
- Xin lỗi, huynh đừng nói ai, vì đói quá nên tôi tìm chút gì lót dạ để chốc nữa tụng kinh đỡ xót ruột.
Chuyện không có gì, và người phát hiện ra có khi cũng chẳng xem chuyện ăn vụng đó là quan trọng. Nhưng nếu có năm người cùng biết rồi bàn ra, tán vào thì cái tội ăn vụng bỗng thành rất lớn. Những người này sẽ kiên quyết bảo vệ quan điểm của mình và kết tội người phạm lỗi. Tương tự, nếu một mình mình chê ai đó thì ta sẽ dễ dàng bỏ qua, nhưng nếu năm người cùng che giống mình thì ta không bỏ qua nữa mà ghim chắc trong lòng rằng người kia xấu.
- Hoặc ta phê binh kẻ kia ăn nói vô duyên, nói lung tung bừa bãi không đúng lúc... Chỉ một mình ta nghĩ như vậy, một chốc sau thù đã quên, gặp lại người ta mình cũng hết giận. Nhưng nếu có nhiều người cùng nhận xét, cùng thống nhất với nhau như thế, thì tự nhiên mình sẽ không bao giờ bỏ được cái ý phê bình ấy nữa. Và từ giờ cho đến lúc chết, người kia vẫn là kẻ vô duyên trong ý nghĩ của mình.
- Ta nên nhớ, khi nhiều người cùng tham gia thì cái hiếu thắng, hơn thua, bảo thủ của con người là rất lớn. Do đó chúng ta nên cẩn thận trước quan điểm của số đông vì số đông không phải luôn đúng, nhiều khi họ không dùng lý trí để phán xét mà chỉ bị cộng hưởng tâm lý với nhau mà thôi. Nên khi thấy nhiều người cùng chống lại ai đó, chúng ta hãy cảnh giác vì rất có thể quan điểm của số đông đã sai.
Đây là bài học rất quý giá mà tôi đã có dịp trải nghiệm ở những cái phố rùm như bangaivn hay asianlabrys.
Hai cái phố rùm này bạn vào chơi nói chuyện phiếm cho vui thôi. Bạn phải thật tỉnh táo với những bài viết ở đó và nhất là những topic tìm bạn , kết bạn.
Tôi đã lắng nghe tâm tình nhân thế qua biết bao cuộc vui buồn của những người ở các trang mạng ấy và tôi chỉ biết nói thế này chân thật thì ít mà giả dối thì vô cùng tận . Ở Asianlabrys + Bangaivn , ẩn giấu đằng sau những lời kết bạn yêu thương đầy mãnh lực qua những con chữ là các cuộc lừa tình trắng trợn và cả cuộc trả thù đời đầy man trá của một bà già mắc chứng bệnh hoang tưởng ở AL. Tất nhiên là tôi chưa bị những con người ở đó lợi dụng trong bất kỳ trường họp nào bởi vì tôi có tâm lý khá vững vàng và yêu bằng lý trí chứ không phải bằng trái tim yếu đuối khờ khạo . Qua đáy tim chưa đục sông mê đúng là như thế .Tôi khá lạnh lùng trong chuyện tình cảm nên không dễ bị lừa hoặc bị lời ngon ngọt dụ dỗ .
Bà già mắc chứng bệnh hoang tưởng ở AL : bà này bị bệnh ra sao.Tôi sẽ kể rõ cho tất cả chị em phụ nữ chúng ta không nên kết bạn hoặc yêu đương mong chờ gì ở loại người này cả. Loại người này rất dễ nhận ra khi chúng ta nói chuyện với họ.
Bà này có nick milou. Tôi có dịp nói chuyện với bả trong buổi offline 5 năm AL . Hôm off đó tôi có quá giang xe của bả về nhà và tôi cũng chẳng làm phiền bả phải chở tôi về . Trên đường về nhà bả thì bả cho quá giang , phụ nữ LBGT luôn hào phóng vậy đó.
Sau đó tôi có mời bả đi uống cafe để "trả nợ" cho bả và có cho bả số phone nhưng không thấy bả trả lời và tôi cũng quên luôn chuyện này.
Ba năm sau vào một buổi tối khuya, tôi nghe tiếng gọi điện thoại cho tôi thế này
Alo , em có nhớ chị không
Chị là ai vậy
Chị Milou đây
à chị miou ...
Bả bắt đầu cưa cẩm phụ nữ , à là kua gái đó nha
Cái kiểu kua gái của bả như sau:
Chị có cái nhà rộng lắm , em qua nhà chị chơi và chị cùng em nấu ăn rồi chúng ta sẽ ăn uống rôm rả cùng nhau
Chị yêu phụ nữ và muốn đêm đêm nằm ôm nhau ngủ.
Chị là giám đốc công ty âm nhạc gì đó ...
Từ trước tới giờ chị sống đàng hoàng lắm không làm mất lòng ai cả...
Đi kua gái thì phải làm cho gái đổ, bả sẽ cố gắng làm cho người ta siêu lòng với bả và khi bả thấy họ có vẻ siêu rồi thì bả sẽ trở mặt .
Bả sẽ cố gắng làm cho người ta siêu lòng như thế nào: bả sẽ dẫn dụ bạn nếu thấy bạn mềm như chiếc lá.
Tại sao em thích chị , em nói đi; bả sẽ hỏi câu này rất nhiều lần.
Em thấy chị là người như thế nào; bả cũng hỏi câu này rất nhiều lần.
Bà sống đàng hoàng thì kệ tía kệ mẹ bà chứ, có liên quan gì tới tui đâu khoe chi vậy. Bà có làm giám đốc công ty gì đó cũng chẳng có chi với tui cả.
Tui có nói thích chị đâu, chị cố gắng dẫn dụ để tôi nói thích chị ...
Sau cùng tôi nói : chuyện của chị với tôi xem như chuyện giải trí thôi , chẳng có tình cảm gì với nhau hết á.Bả cay cú lắm.Bả chỉ đi uống cafe với tôi hai lần , bả rất thích nói chuyện điện thoại.
Chuyện này có thể lúc ấy bả phát bệnh , bả tìm gặp tôi như bả tìm gái còn non nớt nhẹ dạ. Sau đó bả tìm cách đưa gái vào "động" của bả để đạt được mục đích.
Trong quá khứ bà này có thể đã từng bị người ta gạ gẫm ,lừa tình hoặc do bả quá đau khổ vì thất tình nên tìm cách trả thù đời. Một dạng bệnh lý thần kinh đa nhân cách hoặc hoang tưởng.
Phụ nữ yêu nhau đã khổ lắm rồi , đừng tìm cách trả thù đời như cái bà điên này.
Mời mọi người xem lại bộ phim Phạm Công Cúc Hoa , phim này có cũng khoảng ba mươi năm rồi. Phim này khá nổi tiếng khi nó mới được công chiếu.
Phạm Công Cúc Hoa là một tác phẩm thơ Nôm do một tác giả Việt Nam khuyết danh sáng tác, cho đến nay người ta cũng chưa biết đích danh tác giả là ai, theo Thanh Lãng thì truyện Phạm Công Cúc Hoa ra đời vào khoảng năm 1729-1788 là thời Lê Trịnh, với lối văn rất mộc mạc bình dân và cốt truyện kiểu đời thường, dễ dãi nên nó được truyền tụng khá phổ biến trong dân chúng, truyện thơ khá dài với 4.026 câu thơ lục bát.
Có lẽ truyện này cũng giống như Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ thuộc thể loại truyện thần dị , lạ kỳ trong văn học cổ Việt Nam. Tôi cũng không biết nhiều về truyện này , chỉ biết truyện này khi nó được dựng thành phim.
Không nói nhiều đến nội dung phim. Chúng tôi chỉ khai thác một đoạn ở cuối phim để chấp bút.
Phạm Công xuống âm phủ tìm gặp vợ yêu là nàng Cúc Hoa , nàng chết đã lâu do vậy không thể trở về dương gian trong thân xác phàm tục. Diêm vương quyết định cho nàng sống trong thể xác của công chúa Băng Tâm.
Gia đình Phạm Công cùng công chúa ra mộ Cúc Hoa tìm chàng, công chúa gặp thầy Quỷ Cốc . Thầy đưa cho nàng cái gương Thiên Lý để công chúa theo dõi chàng ở âm phủ. Đặc biệt chỉ một mình công chúa nhìn thấy được những gì trong gương mà thôi.
Tại sao chỉ công chúa mới thấy được những gì trong gương?
Chúng tôi luôn enjoy chi tiết này. Chúng tôi đang học về tâm thức và bản tâm con người thuộc loại phức tạp , rác rối như bạn đi lạc trong mê cung không đường ra.
...Chạnh lòng thương nhớ những phút xưa, phút xa xưa qua rồi
Lạnh lùng tưởng nhớ bóng dáng ai in sâu trong lòng tôi Đường xưa còn đó, nắng vẫn lên, vẫn trăng treo ven đồi Mà hình bóng cũ, thiếu trong tôi mỗi khi nghe chiều rơi..."
Trích trong nhạc phẩm Đường Xưa Lối Cũ của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ
Không phải cảm nhận bài hát này , chỉ là mượn lời bài hát để nói lên chút chút chạnh lòng.
Những ngày mùa dịch giã như thế này ; lại xem những clip đau thương cho những phận đời xa quê vì cuộc sống , miếng cơm manh áo. Vì tương lai con cái mà những cặp vợ chồng , vợ chồng trẻ phải lăn lộn dắt díu nhau vô gia cư , đi hành khất...
Cuộc sống quê nghèo nên có những gia đình rời bỏ quê cha quê mẹ đến những chốn phồn hoa đô thị . Họ là những người cha người mẹ nghèo xin những giọt sữa những cái bánh cho những đứa con thân yêu của họ. Họ có khi chỉ như vậy thôi , thương yêu con cái hơn cả thương chính bản thân họ.
Tôi vẫn luôn thắc mắc những cha nghèo mẹ nghèo đó, tại sao họ đến với nhau làm gì để cho những đứa trẻ nheo nhóc , phải khổ sở phải đáng thương quá vậy. Có tương lai tốt đẹp nào dành cho chúng.
Khi tôi còn niên thiếu cha mẹ tôi thường hay mua những quyển truyện cho tôi đọc. Có truyện tôi chẳng hiểu được như truyện Em Bé Bán Diêm trong truyện cổ Đan Mạch. Tôi còn được xem vở diễn kịch Em Bé Bán Diêm ở nhà thờ , câu chuyện hết sức đau lòng trong đêm giao thừa.
Gia đình chúng tôi cũng là dân nhập cư nhưng không phải từ miền quê nghèo mà từ thành phố này đến thành phố khác. Khi bỏ quê ra đi là phải bỏ lại ngôi nhà , bỏ đồ đạc . Chỉ có vài cái va li quần áo , lại còn bị mất cắp trong chuyến hành trình đó.
Những đứa trẻ ấy vẫn ấm áp vì vẫn còn có cha có mẹ bên cạnh chúng . Thôi cũng đành cầu Thần Linh che chở và giúp đỡ chúng.
Cám ơn Vũ Trụ này đã khai mở tâm trí cho con. Mỗi ngày đến trong con là một nguồn năng lượng tinh tuý , tinh thần minh mẫn sáng suốt .
Đây là món quà thầy Lệ Minh tặng , một bộ Lá Duyên rất đẹp
và tôi mong muốn Thần Linh tặng cho tôi một cô bạn gái ( Con đã chấm được cô bạn gái rồi và con chỉ mong Thần Linh cho con luôn cô gái ấy thôi ) hahaha.
Tôi vẫn thường nói là tôi chưa lớn dù tôi đã là người lớn lâu rồi.
Ngày tết thiếu nhi nhớ hai câu thơ mẹ tôi vẫn hay trêu tôi lúc tôi còn nhỏ.
Trung thu trăng sáng như gương
Người ngồi ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng
Sau đây người viết mấy dòng
Gửi cho các cháu tỏ lòng nhớ nhung.
Lúc ba , bốn tuổi trẻ con thường nói ngọng và tôi hay nói chữ nhớ nhung thành nhớ đung. Thiếu niên nhi đồng thường có quà 1/6 cho đến năm 16 tuổi.Tôi đâu biết rằng ngày 1/6 lại có một lịch sử bi thương vậy chứ!
Vào rạng sáng ngày 1/6/1942, quân phát xít Đức bao vây làng Li-đi-xơ (Tiệp Khắc), chúng bắt 173 người đàn ông, 196 người phụ nữ và trẻ em. Tại đây, chúng đã tàn sát 66 người và đưa 104 em thiếu nhi vào trại tập trung, 88 em bị chết trong các phòng hơi độc, 9 em khác bị đưa đi làm tay sai cho bọn phát xít. Làng Li-đi-xơ không còn một bóng người.
Hai năm sau, ngày 10/6/1944, phát xít Đức lại bao vây thị trấn Ô-ra-đua (Pháp), chúng dồn 400 người vào nhà thờ, trong đó có nhiều phụ nữ và hơn 100 trẻ em, phóng hỏa đốt cháy một cách thảm thương.
Để tưởng nhớ đến hàng trăm trẻ em vô tội đã bị Đức Quốc Xã sát hại nhẫn tâm, năm 1949 Liên đoàn Phụ nữ dân chủ Quốc tế đã quyết định lấy ngày 1/6 hàng năm làm ngày quốc tế bảo vệ thiếu nhi, nhằm đòi chính phủ các nước phải nhận trách nhiệm về đời sống thiếu nhi, đòi giảm ngân sách quân sự để tăng ngân sách giáo dục, bảo vệ và chăm sóc thiếu niên, nhi đồng. Kể từ năm 1950, ngày 1/6 hàng năm trở thành ngày của thiếu nhi.
Lòng cô gái ở bến sông kia. Cô hồi tưởng lại ba xuân trước, Trên bến cùng ai đã nặng thề.
...Bỏ thuyền, bỏ bến, bỏ dòng trong, Cô lái đò kia đi lấy chồng. Vắng bóng cô em từ dạo ấy, Để buồn cho những khách sang sông...
Trích thơ Nguyễn Bính
Chúng tôi mượn những dòng thơ của thi sĩ NB trong bài Cô Lái Đò để nói lên tâm trạng của chúng tôi sau một chuyến tham quan.
Chúng tôi có dịp thăm viếng chùa Hương là một danh lam thắng cảnh của miền bắc Việt Nam. Chuyến đi là phần thưởng cho một cuộc thi kinh phật mà chúng tôi đã học hành xuyên suốt mấy tháng.
Chúng tôi nhớ lần đi đò vào chùa Hương , tôi nhớ bạn gái ngồi cạnh bên tôi . Bạn có một làn da bánh mật , với dáng người nhỏ nhắn xinh xinh . Trông bạn rất trẻ dù tuổi của bạn không còn trẻ.
Cũng giống cô lái đò nhớ người lữ khách mà cô xao xuyến . Tôi cũng rung động với cảnh non nước hữu tình và người bạn gái ngồi chung với tôi trên chuyến đò ấy như thể em là cô lái đò trong bài hát Sóng Nước Biếc của t/g Phạm Đình Chương.
Tình ca Sóng nước biếc - một khúc nhạc nước ngoài có tên Waves of Danube, được nhạc sĩ Phạm Đình Chương đặt lời Việt vô cùng nên thơ.Tựa bản nhạc bằng tiếng Pháp là Flots du Danube. Tác giả của Waves of Danube là nhà soạn nhạc Iosif Ivanovici người Romanian.
Tôi được biết đến bản nhạc này, sau bài Dòng sông xanh tức Blue Danube của Johann Strauss II.
Từ đó, mỗi lần có dịp nghe nhạc hoà tấu cùng bạn bè, tôi luôn nghe cả hai bài Valse liên tiếp như một liên khúc về dòng Danube, dòng sông của cảm xúc tiềm ẩn, đầy thơ mộng chảy ngang qua Vienna và Romania - quê hương của hai tác giả của hai khúc cổ điển lừng danh năm châu bốn bể ấy.
Phiên chợ Ba Tư (“In a Persian market”) gợi nhớ những chuyện kể kỳ diệu của nàng Sê hê ra dát (Scheherazade) trong “Nghìn lẻ một đêm” thuở nào, không chỉ có sức cuốn hút kỳ lạ với những em nhỏ, mà những người lớn cũng say mê những câu chuyện hàng đêm của Nàng.
Không kém phần rực rỡ, tác phẩm Phiên Chợ Ba Tư với khí nhạc vô cùng lôi cuốn và đa màu sắc đã trở thành một kiệt tác âm nhạc.
Tác phẩm được sáng tác năm 1920, là một trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà soạn nhạc kiêm nhạc trưởng, nghệ sĩ piano người Anh Albert William Ketèlbey (1875 – 1959).
Qua âm thanh, giai điệu người ta hình dung đươc toàn bộ mọi diễn biến của buổi phiên chợ thời cổ như một bức tranh vô cùng sống động.
Một họa sĩ vẽ hình ảnh cho tác phẩm của ông đã hóm hỉnh mô tả chính nhà soạn nhạc như một phù thủy đang pha chế một hỗn hợp âm điệu trong một cái vạc lớn. Ketèlbey đã pha màu và vẽ ra loạt 9 bức tranh liên hoàn miêu tả cảnh tượng một phiên chợ Ba Tư cổ xưa trong “In a Persian market”:
Cảnh 1: Những người đánh lạc đà đang tới chợ Cảnh 2: Những kẻ hành khất đang cầu xin bố thí
Cảnh 3: Sự xuất hiện bất ngờ của nàng công chúa xinh đẹp khiến tất cả đột ngột lắng xuống sững sờ… Cảnh 4: Những người làm trò tung hứng trong chợ Cảnh 5: Những người làm trò dụ rắn trong chợ Cảnh 6: Đức Kha-lip (vua Hồi giáo) đi qua chợ Cảnh 7: Những kẻ hành khất lại lên tiếng cầu xin Cảnh 8: Những người đánh lạc đà tiếp tục lên đường, cảm nhận tiếng xe đi xa dần, xa dần… Cảnh 9: Chợ trở nên vắng vẻ, hoang vu trong tiếng nhạc êm buồn liu riu. Rồi, bỗng dưng nghe tiếng “xầm” cuối cùng, đó là tiếng cổng chợ đóng lại.
Lắng nghe bản nhạc “In a Persian market”, chắc chắn bạn có thể “nhìn được” và “cảm nhận được” mình đang lạc vào một bức vẽ một nàng công chúa xứ Ba Tư thế giới cổ tích diệu kỳ.
Như thể bạn đang có mặt tại phiên chợ cổ xưa và tận mắt chứng kiến những cảnh tượng vô cùng sống động – những cảnh tượng mà có lẽ trước đây bạn đã từng hình dung khi nghe những câu chuyện cuốn hút mê hồn của nàng Scheherazade trong “Ngàn lẻ một đêm”.
Ở phút 1:15, khi nàng công chúa đột nhiên xuất hiện, nhạc đột nhiên dịu xuống tới nao lòng, báo hiệu sự xuất hiện của nàng công chúa. Khi nàng công chúa xuất hiện, nền nhạc chuyển sang giai điệu nhịp nhàng, uyển chuyển miêu tả bước đi của công chúa, tựa như tiếng nước suối róc rách, và rồi dòng suối ngừng chảy, dường như bị mê hoặc bởi sắc đẹp mê hồn, và mọi thứ bừng tỉnh trong niềm vui hân hoan của buổi họp chợ được đón nàng công chúa ở phút 2:11, nhạc dâng cao những nốt thăng tuyệt mỹ.
Sau đó là những chi tiết một phiên chợ cổ Ba tư, xứ sở của nàng Scheherazade trong “Nghìn lẻ một đêm”, nào là những con lạc đà, những kẻ hành khất, ông lão bán rắn…trong giai điệu rộn ràng huyền bí xứ Ba Tư…
Rồi những tiếng động, và không khí trang nghiêm khi nhà vua Khalip đi qua chợ…tất cả như quyện lại, thật hoàn hảo.
Khi những người đánh lạc đà tiếp tục lên đường, cảm nhận tiêng xe đi xa dần, xa dần…âm nhạc dần nhỏ lại, nhỏ lại ở phút 5:38, rồi vào âm thanh dịu buồn liu riu của cảnh chợ trở lại vắng vẻ, hoang vu…
Và bỗng dưng nghe tiếng “xầm”, đó là tiếng cổng chợ đóng lại ở phút 6:39.
Điểm tuyệt vời và độc đáo của Ketèlbey là ở chỗ này, nó đã làm ông khác biệt với tất cả, và nhắc đến ông là người ta sẽ phải nhớ đến Phiên chợ Ba Tư huyền thoại của ông…
Nhạc phẩm Phiên chợ Ba Tư hay vậy mà ta lại có mấy quyển truyện cổ Ba Tư dở tệ.