Thursday, October 17, 2019

Pourquoi Parler D’amour ( sao phải nói lời yêu )

Trang Giấy và Em
Ngày em biết viết lời tình
Chữ trên trang giấy cười xinh nét hồng
Ngày em rối mớ tơ lòng
Trên trang giấy mỏng thấm dòng lệ rơi
Ngày em bỏ dở cuộc chơi
Trên trang giấy trắng một trời tím thu
Ngày em yêu khúc thuỵ du
Trên trang giấy trắng sương mù phủ quanh
Ngày nào còn nhớ đến anh
Trên trang giấy trắng em đành vấn vương
Cho anh hết cả trời thương...
1222939381
762b20f1371a6c9855039c27cff717f9
Pourquoi Parler D’amour
Enrico Macias
Pourquoi parler d’amour
Quand on s’aime
Quand on s’aime ?
Nos coeurs depuis toujours
Sont les mêmes
Sont les mêmes
Pas besoin de discours
Pas la peine
De poème
Les mots d’amour
Rendront service
Pour te les dire aussi
Regarde-moi, je suis heureux
Ca se voit dans mes yeux
Pourquoi parler d’amour
Quand on s’aime
Quand on s’aime ?
Notre vie chaque jour
Nous entraîne
Nous enchaîne
Tu sais bien mon amour
Que je t’aime
Que je t’aime
Le vrai bonheur et la passion
N’ont pas d’explication
Reste avec moi
Toute la vie
Comme on est aujourd’hui
Quand tu viens te jeter dans mes bras
Quand je pense que tu es à moi
Ce que je pourrais dire ne compte pas
Pas besoin de discours
Pas la peine
De poème
Entre nous deux la vérité
Ne peut plus s’en aller
Amour rêvé
Tous les matins
Avec toi je suis bien
Dịch ý ( Obelix )
Sao phải nói lời yêu
Pourquoi parler d’amour
Quand on s’aime
Quand on s’aime ?
Nos coeurs depuis toujours
Sont les mêmes
Sont les mêmes
Nói lời yêu làm gì
Khi đôi ta yêu nhau
Khi đôi ta yêu nhau?
Trái tim của chúng ta vẫn luôn
Như vậy thôi
Như vậy thôi
Pas besoin de discours
Pas la peine
De poème
Les mots d’amour
Rendront service
Pour te les dire aussi
Không cần những lời nói
Không cần nỗi khổ đau
Của những bài thơ
Những lời yêu thương
sẽ vẫn rất có ích
để nói với em
Regarde-moi, je suis heureux
Ca se voit dans mes yeux
Hãy nhìn anh đi, anh thật hạnh phúc
Điều đó thấy được trong mắt anh

Pourquoi parler d’amour
Quand on s’aime
Quand on s’aime ?
Sao phải nói lời yêu
Khi chúng ta yêu nhau
Khi chúng ta yêu nhau ?
Notre vie chaque jour
Nous entraîne
Nous enchaîne
Cuộc sống hằng ngày
Lôi kéo chúng ta
Gắn bó chúng ta
Tu sais bien mon amour
Que je t’aime
Que je t’aime
Em biết mà em yêu
rằng anh yêu em
rằng anh yêu em
Le vrai bonheur et la passion
N’ont pas d’explication
Reste avec moi
Toute la vie
Comme on est aujourd’hui
Hạnh phúc đích thực và đam mê
không có lời giải thích
Ở bên em
suốt cuộc đời
Như hôm nay
Quand tu viens te jeter dans mes bras
Quand je pense que tu es à moi
Ce que je pourrais dire ne compte pas
Khi em trong vòng tay anh
Khi anh biết rằng em là của anh
Những điều anh muốn nói không còn quan trọng nữa
Pas besoin de discours
Pas la peine
De poème
Entre nous deux la vérité
Ne peut plus s’en aller
Không cần những lời nói
không còn nỗi khổ đau
của những bài thơ
Giữa chúng ta là sự thật
Không còn gì hơn nữa
Amour rêvé
Tous les matins
Avec toi je suis bien
Tình yêu mơ ước
Mỗi buổi sáng
ở bên em anh thấy hạnh phúc
9d3e0d2d3468f2b0a2598841ff745d7c
Vì sao nói đến tình yêu ( bản dịch của vo danh )
Vì sao nói đến tình yêu
Khi ta yêu nhau
Khi ta yêu nhau
Đôi tim ta đã từ  lâu
Như  nhau
Đâu cần bài diễn văn
Không cần một tiếng thơ
Ngôn ngữ tình yêu
Sẽ giúp anh trả lời em
Hãy nhìn anh đi
Anh đang hạnh phúc
Thấy chăng trong mắt anh
Vì sao nói đến tình yêu
Khi ta yêu nhau
Khi ta yêu nhau ?
Mỗi ngày đời ta
Lôi kéo ta đi
Em đã biết
Rằng anh yêu em
Anh yêu em
Hạnh phúc chân thật và đam mê
Không thể cắt nghĩa được
Hãy dừng lại bên anh
Trọn cuộc đời
Như hôm nay
Khi em trong vòng tay anh
Khi anh nghĩ rằng em là của anh
Thì những gì anh nói sẽ không đáng kể
Đâu cần bài diễn văn
Không cần một tiếng thơ
Sự thật sẽ tồn tại mãi
Giữa hai chúng ta
Tình yêu mơ ước
Cho mọi buổi sáng
Hạnh phúc bên em. 
Lời Việt  do ca sĩ  NL hát
Cần gì vài lời tình ái khi đã yêu nhau em đã yêu anh
Cần gì vài lời tình ái khi đã không yêu khi đã quên nhau
Cần gì dài dòng tiểu thuyết thi phú văn hoa chữ nghĩa xôn xao
nói chi những câu đắm say bên nhau dấu che chi tình phôi pha
ngắm chi say sưa những khi thương yêu đã phôi phai dần trong anh
cần gì vài lời tình ái khi trái tim anh đã hết yêu thương
cuộc đời mình cùng lời hứa đôi lứa bên nhau mãi đến thiên thu
tình nồng nàn và đằm thắm em đã dâng anh với bao dịu dàng
với những mê say góp hết thơ ngây những thương yêu giành cho anh
hãy yêu em hơn với thơ ngây xưa lẫn đam mê ngày hôm nay
tình tuyệt vời khi em nép trong tay người
tình dịu dàng khi em biết có riêng người
tình nồng nàn khi nghe tiếng anh yêu đầm ấm. 

There Goes My Everything & tản văn

Cuộc đời như  những trang giấy trắng mà ta sẽ viết lên đó . Trang giấy không còn trắng như  thủa ban đầu , dù ta có cố gắng tẩy xóa . Chỉ có thể tiếp tục viết , tiếp tục tiến vào tương lai .
Nhưng những gì đã viết sẽ không phai mờ , những kỷ niệm vui buồn , chút ngẩn ngơ , hờn dỗi . Những tháng ngày đi học bên bạn bè , thầy cô , trường lớp, anh chị em ….
Tất cả , tất cả đều được giữ lại đó , trên trang giấy cuộc đời , ở nơi đó , một góc bình yên trong tâm hồn .
Trang giấy trắng sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu ta không viết lên . Phải viết lên đó , viết thật đẹp , thật cẩn thận . Để khi một lúc nào đó , khi ta xem lại những trang giấy ấy …ta mỉm cười .
6566c7a15168b40a5c989f63f0479581
Ta vẫn yêu em như  thủa ban đầu , như lần đầu gặp em và yêu em . Ta sẽ gắn bó với em như một người tình , như  một người yêu trong sáng nhất của ta , wordpress ạ . Ta yêu em nhiều và em hãy yên tâm với tình yêu chung thủy của ta nhé . Giống như  ca khúc Let it be me hãy để cho anh làm người mà em cần nhất trong cuộc đời em .
Em là trang giấy của anh , dù anh không thể cầm em , không thể dùng những nét bút nghiêng ngả gãi ngứa cho em nhưng chắc chắn một điều anh yêu em .
Ce0aaf28fa081de8c2fedaa6404cbc04

There Goes My Everything

Elvis  Presley
There goes my only possession
There goes my everything
I hear footsteps slowly walking
As they gently walk across the lonely floor
And a voice is softly saying
Darling this will be goodbye for evermore
There goes my reason for living
There goes the one of my dreams
There goes my only possession
There goes my everything
As my memory turns back the pages
I can see the happy years we’ve had before
Now the love that kept this heart beating
Has been shattered by the closing of the door
Dịch ý
Mất rồi điều duy nhất của tôi
Mất rồi mọi thứ   của tôi
Tôi nghe thấy những bước chân rãi thật chậm
Khi họ bước nhẹ qua căn phòng đơn côi
Và một tiếng nói cất lên nhẹ nhẹ
Anh yêu, đây sẽ là lần chia tay mãi mãi
Mất rồi lý do để tôi sống
Mất rồi những ước mơ của tôi
Mất rồi điều duy nhất tôi có
Mất rồi mọi thứ  của tôi
Như  hồi ức lật ngược từng trang
Tôi có thể thấy những tháng năm hạnh phúc đôi ta đã có trước kia
Giờ đây tình yêu ấy được giữ lại trong nhịp đập con tim này
Đã vỡ tan theo tiếng  cánh cửa đóng lại.

Wednesday, October 16, 2019

Adios Amigo ( Bạn Adios! )

Những mối tình tay ba luôn tồn tại trong âm nhạc văn chương đời sống và phim ảnh  và nhất là trong  điện ảnh kịch trường người ta thường xuyên khai thác những đề tài tình tay ba để làm cho cốt truyện thêm phần hào hứng kịch tính . Tôi và bạn đã từng biết đến một bản nhạc  Pháp thấm đẫm nước mắt về bi kịch của tình tay ba qua ca khúc  Sad Movie  ( Chuyện Phim Buồn ) .
Nói đến tình tay ba hay tay bốn  năm gì đó là đang nói đến bộ mắt xấu xí của cái gọi là tình yêu đôi lứa . Chẳng ai mong muốn mình là người thứ  hai trong một cuộc tình ba người  . Tình yêu là những gì tốt đẹp trên thế gian này và tình yêu là duy nhất với chỉ một người ta thương yêu mà thôi . Người đó trao cho ta những cung bậc cảm xúc và ta cũng trao lại như  thế .
Thật không may mắn cho ai bị thần ái tình đùa giỡn ,  buồn thật khi bị vướng vào vòng xoáy tình yêu với ai đó đã có sợ i dây  tơ hồng nhưng biết làm sao được . Cuộc sống đầy những rủi ro và bất trắc mà con người ta cũng chỉ là người trần mắt thịt .
Tumblr_ok6zlcFX7c1r4or01o1_500

Adios Amigo

Jim Reeves
Adios amigo, adios my friend
The road we have travelled has come to an end
When two love the same love, one love has to lose
But it’s you who she longs for, it’s you she will choose
Adios compadre, what must be must be
Remember to name one muchacho for me
I ride to the rio where my life i must spend
Adios amigo, adios my friend
Adios compadre, let us shed no tears
May all your mañanas bring joy through the years
away from these memories my life i must spend
adios amigo adios my friend.
Www.tvn.hu_b5856ea97ac98d0f96f1e2645c4726a0
Dịch ý
Bạn Adios, Adios bạn tôi ơi
Con đường mà chúng ta đi đã đến điểm dừng
Khi cả hai yêu cùng một người thì một phải ra đi
Nhưng cô ấy mong muốn anh, cô ấy sẽ chọn anh
Bạn Adios à, dù cho có phải ra sao đi nữa
Hãy nhớ đặt tên một thằng nhóc cho tôi nhé
Tôi lái xe đến dòng sông nơi tôi phải sống cuộc đời mình
Bạn Adios ơi, bạn Adios của tôi ơi
Bạn Adios à, chúng ta đừng khóc nhé
Cầu cho tương lai của anh sẽ luôn mang đến niềm vui
Tôi phải sống cuộc đời mình tránh xa những kỉ niệm này
Adios bạn ơi, Adios bạn tôi ơi .

Monday, October 14, 2019

He’ll Have To Go & tản văn

Góc Thu

Những câu thơ không đầy lên như sóng
ta viết bằng khoảng lặng của trái tim
thiếu những chiếc lá khô và gam màu xám
ai nhận ra ta góc phố mây chiều
Ta tựa lòng mình vào lòng ai
nghe xa xăm chảy tan vào im ắng
rất êm thôi hương ngọc lan trở khẽ
ai hoang vu như gió thổi bên trời
Sao mãi nhìn bằng đôi mắt đẫm bình minh
dội lại hoàng hôn tiếng phong cầm réo rắt
trở về bên người nỗi buồn nâu biếc
dáng heo may se sắt phố gầy
406f408a91096c32dbe7bfb27e6e260f
590ff2f5c60cb091b989684adc7af3e0

He’ll Have To Go

Jim Reeves
Put your sweet lips a little closer to the phone
Let’s pretend that we’re together all alone
I’ll tell the man to turn the juke box way down low
And you can tell your friend there with you he’ll have to go
Whisper to me tell me do you love me true
Or is he holding you the way I do
Though love is blind make up your mind I’ve got to know
Should I hang up or will you tell him he’ll have to go
You can’t say the words I want to hear
While you’re with another man
Do you want me, answer yes or no
Darlin’ I will understand
Put your sweet lips a little closer to the phone
Let’s pretend that we’re together all alone
I’ll tell the man to turn the juke box way down low
And you can tell your friend there with you he’ll have to go
Dịch ý
Hãy kề sát đôi môi ngọt ngào của em hơn nữa vào chiếc điện thoại
Hãy giả vờ như chúng chỉ có chúng ta với nhau mà thôi
Anh sẽ bảo người ta vặn nhỏ máy chơi nhạc xuống
Và em có thể bảo với người bạn đang ở  đó với em rằng anh ta phải đi chỗ khác đi
Thì thầm với anh, nói anh nghe, em có thật lòng yêu anh không
Hay là anh ta đang ôm em như  cách anh vẫn thế
Dù tình yêu là mù quáng, xin em hãy quyết định đi, anh cần phải biết
Anh nên gác máy hay em sẽ bảo anh ta rằng anh ta phải ra đi thôi
Em không thể nói những lời anh muốn nghe
Khi mà em đang ở với người đàn ông khác
Em có muốn anh không, hãy trả lời có hay là không
Em ơi, anh sẽ hiểu thôi
Hãy kề sát đôi môi ngọt ngào của em hơn nữa vào chiếc điện thoại
Hãy giả vờ như  chúng chỉ có chúng ta với nhau mà thôi
Anh sẽ bảo người ta vặn nhỏ máy chơi nhạc xuống
Và em có thể bảo với người bạn đang ở đó với em rằng anh ta phải ra đi thôi.

Phật giáo & văn học

Văn học là một trong những phương thức biểu đạt tình cảm và trí thức của loài người. Một tác phẩm văn học hay, không chỉ tạo ra tiếng vang rộng lớn tại thời điểm và địa phương nào đó, thậm chí nó có khả năng siêu vượt biên giới thời-không, dẫn dắt nhân tâm bước vào cảnh giới chân- thiện- mỹ. Trong Phật giáo có rất nhiều tác phẩm đại diện cho loại hình này; đặc biệt chính bản thân Đức Phật cũng là nhà văn học tài trí mẫn tiệp, trí tuệ siêu quần. 

anh NS 5.jpg
Chân lý vũ trụ hệt như một bộ kiệt tác sống động hùng vĩ 

Sau khi ngộ đạo, nhằm để đại chúng liễu đạt thực tướng vũ trụ, Đức Phật đã đem chân lý thâm áo tuyên thuyết với lời lẽ dễ hiểu qua mười hai loại thể tài (văn thơ), ấy là Mười hai bộ kinh, gồm: Trường hàng (tức văn xuôi), Trùng tụngKý biệt (tức những lời truyền dạy do Đức Phật thụ ký, chứng nhận cho các vị Bồ-tát, các bậc Thanh văn, đệ tử mai sau thành Phật, và thuyết lý những việc sẽ xảy ra…), Phúng tụngTự thuyếtNhân duyênTỷ dụBổn sựBổn sanhPhương quảngVị tằng hữuLuận nghị. Đây là bản mẫu hay nhất của văn học. Mỗi một phẩm kiểu giống kịch đơn (lẻ) như trong kinh Đại Bảo Tích, kinh Phổ diệu là truyện trường thiên, kinh Tu lại là tác phẩm tiểu thuyết, kinh Tư ích Phạm thiên là thể tài bán tiểu thuyết bán hý kịch, kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti Nirdesa) là thơ mới (thơ Bạch thoại xuất hiện sau phong trào Ngũ Tứ) đẹp nhất thế giới, bảy tỷ dụ trong kinh Diệu pháp liên hoa là văn học ngụ ngôn hay nhất, kinh Hoa nghiêm là kịch tác trường thiên hùng vĩ nhất, kinh Bách dụ được dịch ra nhiều thứ tiếng, được khắp nơi đón nhận; kinh Bổn sanh là truyện ký văn học mà ai cũng biết, trong đó hàng loạt câu chuyện được nhiều tác phẩm nổi tiếng trên thế giới viện dẫn rộng rãi như Y-tố1 ngụ ngôn (Aesop’s Fables/truyện ngụ ngôn của Aesop), Thiên phương dạ đàm (Nhất thiên linh nhất dạ2). Ngoài ra, đệ tử của Đức Phật đa số cũng giỏi về thơ ca kệ tụng, như Trưởng lão Tăng kệ và Trưởng lão Ni kệ, không chỉ tươi mát sâu xa, mà còn nêu cao lý tưởng tôn giáo, hiển bày luân lý giáo thuyết, được đánh giá rất cao trong lĩnh vực văn học.
Mãi đến Phật giáo Đại thừa hưng khởi, văn phong có xu hướng mượt mà sống động, vào thế kỷ II Tây lịch, các tác phẩm Phật sở hành tánXá Lợi Phất (Śāriputra) chi sở thuyếtTôn Đà Lợi (Sundari) Nan Đà (Nanda) thi của Bồ-tát Mã Minh (đầu thế kỷ II), đều là tác phẩm tiên phong trong văn học cổ điển Ấn Độ. Sau này có Tứ bách tánNhất bách ngũ thập tán Phật tụng được Mātṛceṭa thi sĩ phái Mã Minh sáng tác, cũng nhận được sự tôn sùng nhất trí của các nhà thơ trên lãnh thổ Ấn Độ.
Thế kỷ IV Tây lịch, ngoài Bổn sinh man luận (Jātakamālā) của Đại sư Thánh Dũng và Thí dụ tập (Avadana-kalpalata) của nhà thơ Ksemendra (đều là những tác phẩm kinh điển Phật giáo) ra, thì trong đó nổi bật nhất là vở kịch thơ Sakuntala3 của nhà thơ nổi tiếng Kālidāsa Ấn Độ còn lưu danh ở đời. Bản kịch này chủ yếu là lấy câu chuyện trong kinh điển Phật giáo mà viết thành, vào năm 1789 sau khi dịch sang các thứ tiếng của các nước, thịnh hành khắp châu Âu, lúc bấy giờ văn hào nước Đức Johann Wolfgang Goethe (1749-1832) sau khi đọc xong, xúc động và đã viết ra bốn câu thơ ngợi ca4, không chỉ dừng lại ở đó, mà Goethe còn đem lời dạo đầu của bản kịch này dẫn dụng trong tác phẩm kịch thơ đồ sộ (gồm 12.000 câu thơ) Phù sĩ đức (Faust) của ông.
Tác phẩm kịch Phật giáo Long vương chi hỷ và tán ca Phật giáo Bát đại linh tháp phạm tán thuộc thế kỷ VII Tây lịch, được vua Giới Nhật (Siladitya, khoảng 590-647) bấy giờ thống nhất toàn Ấn Độ biên soạn. Trong văn học sử Ấn Độ chiếm một ví trí quan trọng. Thời cận đại, trong tác phẩm hý khúc của nhà văn đoạt giải Nobel văn học Rabindranath Tagore (1861-1941) Ấn Độ, như Vũ giả chi cúng dường và Chân đà lợi, cũng đều được lấy đề tài từ trong điển cố kinh điển Phật giáo. Địa vị văn học Phật giáo do vậy có thể thấy có những chấm sáng lấp lánh trên diễn đàn văn học thế giới.
Phật giáo sau khi truyền đến Trung Quốc, khí thế càng thêm mạnh mẽ, tựa ‘sấm vang chớp giật’, về phương diện văn hóa nảy sinh sức ảnh hưởng ‘đào núi lấp biển’, trong đó sự cống hiến về phương diện văn học được xem là lớn lao nhất. Nay khái quát năm điểm dưới đây:
1- Thúc đẩy sự phát triển Từ vựng học: Theo thống kê, do sự truyền nhập của Phật giáo, chí ít đã tăng thêm hơn ba vạn năm ngàn từ ngữ mới, cũng có nghĩa là đã tăng thêm hơn ba vạn năm ngàn quan niệm mới, trong đó hoặc là từ diễn biến của danh tướng Phật giáo, hoặc là từ sự chọn lọc trong Phật điển, hoặc là được sinh ra từ truyện Phật giáo, hoặc là trích ra từ ngữ lục Thiền môn. Bởi vì, từ vựng của Phật giáo về khối lượng thì đồ sộ, đầy đủ mọi vật, về hàm ý thì dọc cùng tam tế (quá khứ, hiện tại, vị lai), ngang khắp mười phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông nam, Tây nam, Đông bắc, Tây bắc, trên, dưới), cho nên một mặt đã thúc đẩy sự biểu đạt ý niệm văn chương, nâng cao trình độ, mặt khác thông qua sức mạnh của ngôn ngữ văn tự, làm sáng tỏ quy luật nhân quả nghiệp báo, đối với sự tịnh hóa nhân tâm xã hội cũng có bổ ích to lớn.
2- Thúc đẩy sự hình thành Nghĩa sớ học: Để hệ thống Tam tạng mười hai bộ kinh được phân rõ ràng, nên sau khi truyền vào Trung Quốc, các Tổ sư Đại đức cũng dùng phương thức chỉnh lý thứ tự mạch lạc rồi biên soạn chú sớ (chú giải và chú thích), phân đoạn, chẳng những bắt đầu khơi dòng cho Nghĩa sớ học thời đại Tùy Đường (581- 907), đối với sáng tác văn chương thông thường cũng đã có sức ảnh hưởng ở mức độ đáng kể5.
3- Thúc đẩy sự đẩy mạnh của âm vị học (âm vận học/thanh vận học): Chữ Trung Quốc là một loại văn tự khối vuông, nhìn chữ từ hình dáng bên ngoài không thể nào phát âm được. Phật giáo sau khi truyền vào, để tiện cho việc dịch kinh điển Phật giáo, thời đại Ngụy Tấn thì có Tăng nhân tham gia nghiên cứu về âm vận (chỉ thanh, vận, điệu trong chữ Hán), mà sau này đưa ra phát minh biểu đồ như bốn thanh6, chữ cái7, phiên thiết8, đẳng vận9. Vừa là thúc tiến sự phát triển của âm vận học, vừa là thúc đẩy sự hình thành thơ niêm luật (cách luật), khiến thơ từ Trung Quốc càng tăng thêm cái đẹp của âm tiết vận luật.
4- Thúc đẩy sự hình thành của văn phạm Trung văn: Thời xưa Trung Quốc hoàn toàn không có cái gọi là lý luận văn phạm, mãi đến thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều (220-589), do việc phiên dịch kinh Phật, văn phạm của Phạn văn theo đó truyền vào, như Bát chuyển thanh10, cũng như Đại sư Khuy Cơ (632-682) dựa vào văn điển Phạn ngữ soạn viết sách văn phạm Lục hợp thích11, đều là sự tiên phong, dẫn đường của văn phạm Trung văn.
5- Thúc đẩy sự cải tiến của hình thức thể văn: Từ những năm cuối Đông Hán (184-220) đến Tùy Đường (581-907) trong vòng khoảng 600 năm, là thời kỳ thịnh nhất trong việc dịch kinh Phật giáo, người tham gia đều là những danh Tăng tài trí hơn người, dịch kinh chú trọng phù hợp nguyên nghĩa (nghĩa gốc), truyền thần đạt chỉ (chuyển tải ý chỉ như thật không sai lệch), không những kết hợp giữa thơ và văn xuôi (tản văn), mà nội dung đầy đủ, hình thức đẹp đẽ. Hết thảy Lục triều (Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần) trước nay đều quá chú trọng phong cách và cấu tứ biền ngẫu đối nhau, ngôn từ trau chuốt đẹp đẽ, nhất là thể tài và tư tưởng (quan niệm) Phật kinh phong phú, khiến cho người Trung Quốc xưa nay không thiên về tưởng tượng, lại thêm vào đó tự viện Phật giáo Đường triều, Ngũ đại (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu) thịnh hành lấy phương thức tục giảng12, dùng biến văn13 và biến tướng đồ (truyện tranh Phật giáo) phối hợp để hướng dẫn đại chúng; bằng hình thức thông tục hóa (đại chúng hóa) này, văn học Phật giáo càng gây nên sức ảnh hưởng to lớn. Loại biến tướng đồ vừa nêu trên na ná với “xem tranh kể chuyện” của các bạn nhỏ, có thể nói là khởi đầu cho văn học tranh vẽ; còn biến văn thì không chỉ đã hình thành những là bảo quyển14cổ từ15đàn từ16 (một hình thức văn nghệ nhân gian) sau này, đối với các tiểu thuyết, hý khúc, tạp kịch Tống Nguyên, cho đến Côn khúc (tuồng Côn Sơn), kịch Hoàng Mai (một loại hý khúc của tỉnh An Huy, nhập từ Hoàng Mai, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc), ca tử hý (một loại kịch địa phương ở Đài Loan và Phúc Kiến) v.v... cũng đều có công lao giúp đỡ dẫn dắt.
Cận đại, lấy đề tài từ hý khúc của Phật kinh, như Thiên nữ tán hoa của Mai Lan Phương (1894-1961), cho đến Ma Đăng Già nữ (1900-1976), đều giàu ý nghĩa giáo dục, nội dung biến hóa thú vị, cho nên được sự hoan nghênh của quảng đại quần chúng.
Ngoài ra, về phương diện thơ văn, Phật giáo cũng đã mang đến một cảnh tượng mới mẻ, giống như Chi Độn (314-366) - cao tăng triều đại Đông Tấn, tài năng văn chương tinh tuyệt, thơ ca hoa mỹ, cùng với các nhà văn giỏi viết về thơ huyền ngôn (nội dung chủ yếu của trường phái thơ ca này là giải thích triết lý Phật giáo và Lão Trang) lúc bấy giờ như Tôn Xước (314-371), Hứa Tuần (?-?), Ân Hạo (?-?), Vương Hy Chi (303-361). Giữa Chi Độn với các danh sĩ này có mối thâm giao đặc biệt, cũng chịu sự ảnh hưởng sâu sắc. Tạ Linh Vận (385-433) nhà thơ thời Tấn từng tham gia dịch kinh, những sáng tác thơ ca của ông kết hợp giữa cảnh sơn thủy với nghĩa lý Phật pháp, được tôn là thủy tổ của thơ sơn thủy. Nhà Đường (618-907) về sau, thiền phong rất thịnh hành, nhiều học sĩ có kiến thức uyên bác bỏ Nho theo Phật, các nhà thơ trứ danh như Vương Duy (701-761), Đỗ Phủ (712-770), Bạch Cư Dị (772-846), Tô Đông Pha (1037-1101), do thường xuyên giao du qua lại luận đạo với các thiền sư, lúc ngâm vịnh thơ ca, dòng thơ ấy thấm đẫm mùi thiền tự bao giờ mà không hề hay biết.
Trong Tăng lữ Phật giáo, những tác giả có phong cách viết văn (hành văn) nổi tiếng, cũng không phải hiếm hoi, ví dụ Pháp Châu đời Tùy (581-618, một thuyết nói: 619 hoặc 630), Tuệ Tịnh (578-?), Giảo Nhiên (720-804) đời Đường, Tề Kỷ (863-937), Quán Hưu (823-912), Hy Giác (864-568) Ngũ đại (907-960), Hy Duyệt thời Bắc Tống, Đàm Ngạc (1285-1373), Đại Khuê nhà Nguyên, Đức Ngôn đời Minh, Trí Phác (1636-?), Thánh Thông, Chiếu Thường, Độc Triệt (1586-1656) nhà Thanh. Từ Tùy Đường (581-907) về sau, các Thiền tăng cũng thường đem ngộ cảnh mượn kệ tụng biểu đạt, bày tỏ. Nổi tiếng như tập thơ của Hàn Sơn (691-793), tươi mới tao nhã, được trong và ngoài nước đón nhận. Thơ kệ của Tuyết Đậu Trùng Hiển thì được ngợi khen là “có nếp của hàn lâm học sĩ”.
Qua các triều đại, đã biên soạn được nhiều ngữ lục, công án thiền môn từ các pháp ngữ đối đáp của Thiền tăng; do vì lời văn dễ hiểu rõ ràng, câu chữ sinh động, trở thành tiên phong trong văn học bạch thoại cận đại. Cho đến ngày nay, trong văn học và hý kịch của Phật giáo vẫn không ngừng cách tân một cách đột phá, như xuất bản kinh điển bạch thoại, dùng phương thức văn xuôi đem cổ văn tối nghĩa dịch sang bạch thoại; phát hành tùng thư truyện Phật giáo, dùng hình vẽ minh họa có màu sắc để dẫn dắt thiếu nhi; chế tác kịch truyền hình, phim truyện, phim hoạt hình, vũ kịch (kịch múa), đưa truyện Phật lên màn ảnh; thành lập trung tâm phiên dịch Phật giáo quốc tế, đem các tác phẩm nổi tiếng Phật giáo hiện đại dịch sang ngôn ngữ các nước trên thế giới v.v… Tất cả những việc làm này đều nhằm phổ cập Phật pháp và tịnh hóa nhân tâm.
Thực ra, nhìn từ khía cạnh khác, chân lý vũ trụ hệt như một bộ kiệt tác sống động hùng vĩ, cái gọi là “Văn chương hữu bì hữu cốt tủy, dục tham thử ngữ như tham thiền, ngã tùng chư lão đắc ấn khả, diệu xứ khả ngộ bất khả đắc”(Văn chương có da có xương tủy, muốn xem hiểu văn chương, thì giống như tham thiền, ta được ấn khả từ các lão, chỗ nhỏ nhiệm của đạo Phật là chỉ có thể ‘ngộ’, mà không thể ‘đắc’- nắm lấy), làm thế nào để đại chúng thấu triệt chân lý vốn ngập tràn cùng khắp, có cuộc đời hạnh phúc tròn đầy, đấy chính là chỗ quan trọng mà Phật giáo muốn biểu đạt thông qua sự cọ vẽ của văn học. 
HT.Tinh Vân - Nguyễn Phước Tâm dịch
(Nguồn: Tinh Vân, Phật giáo và thế tục, NXB.Từ Thư Thượng Hải, 2008, tr.61 - 65)
_________________________ 
* Các ghi chú: 1, 2, 4; và năm sinh, mất của các tác giả trong bài này đều là do người dịch thêm vào.
(1) Y-tố (Aesop, 620-560 trước Tây lịch) là nhà ngụ ngôn nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại thế kỷ VI trước Tây lịch. Tương truyền, tác phẩm “Y-tố ngụ ngôn” do ông biên soạn, sưu tập những câu chuyện dân gian Hy Lạp, đồng thời thêm vào điển tích Ấn Độ, A-rập, Cơ-đốc giáo, tổng hơn 350 thiên.
(2) Tập truyện dân gian của A-rập cổ đại, còn có tên gọi là Thiên phương dạ đàm. Nội dung phong phú, quy mô đồ sộ, được Maksim Gorky (1868-1936) - nhà văn, nhà thơ, nhà bình luận, nhà chính luận, học giả (bạn của văn hào Nga Lev Nikolayevich Tolstoy và lãnh tụ Liên Xô Vladimir Ilyich Lenin) ca ngợi là “đài bia tưởng niệm tráng lệ nhất” của văn học dân gian thế giới.
(3) Tên vở kịch thơ này người dịch thấy một số nơi ghi là Shakuntala, là vở kịch của nhà thơ Kalidasa, được chọn từ các truyện: Bổn sanh nữ Kinnara, mẩu thứ 7 bổn sanh Pali Nam truyền, Bổn sanh Tu-thái-la thứ 83 Lục độ tập kinh, quyển 13 đến 14 Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da dược sự.
(4) “Nếu muốn có một tiếng ôm ấp được cả hoa mùa xuân và quả mùa thu. Một tiếng làm đắm say, nuôi dưỡng và thỏa mãn được tâm hồn. Nếu muốn có một tiếng bao gồm được cả trời đất, thì tôi gọi Shakuntala, tiếng đó nói lên tất cả!”.
(5) Tầm ảnh hưởng đối với sáng tác văn chương của Nghĩa sớ học, có thể kể đến các tác phẩm văn chương được viết nên bởi các nhà văn cổ như Bát đại gia đời Đường Tống. Cụ thể đời Đường có: Hàn Dũ (768-824), Liễu Tông Nguyên (773-819); đời Tống có: Tô Tuân (1009-1066), Tô Thức (1037-1101), Tô Triệt (1039-1112), Âu Dương Tu (1007-1072), Vương An Thạch (1021-1086), Tăng Củng (1019-1083), sự kế thừa phân chia, chương tiết của nó, đều có thể thấy sự ảnh hưởng trong phân đoạn nghĩa sớ.
(6) Bốn thanh điệu của âm đọc chữ Hán là: bình, thướng, khứ, và nhập. Theo khảo cứu, cho thấy bốn thanh điệu này được tạo nên bởi chịu sự ảnh hưởng từ các thanh điệu trong quá trình đọc tụng kinh Phật. Trong bài viết Tứ thanh tam vấn (kỳ 2 quyển 9 Thanh Hoa học báo) của ông Trần Dần Khác (陈寅恪, 1890-1969) nói: “Sở dĩ phù hợp phân làm 4 thanh, mà không phân làm các thanh khác, là để loại bỏ sự khác nhau giữa cái gốc (bản) và sự tiếp biến (dị), mà đặt ra một loại gọi là thanh nhập, rồi (lại) phân biệt ba thanh còn lại là bình- thướng- khứ. Thống kê tổng hợp lại, thì phù hợp chia làm 4 thanh. Nhưng sở dĩ phân biệt với 3 thanh còn lại khác, thực tế căn cứ và mô phỏng cách đọc tụng 3 thanh trong kinh Phật lúc bấy giờ của người Trung Quốc, mà việc đọc tụng 3 thanh trong kinh Phật bấy giờ lại có nguồn gốc 3 thanh từ trong Thanh minh luậnthời cổ Ấn Độ. Cứ vào Thanh minh luận của Vi Đà nước Thiên Trúc, gọi là thanh, thích hợp tương tợ với cái gọi là 4 thanh Trung Quốc, tức chỉ âm cao thấp của thanh, cũng giống như Anh ngữ gọi là Pitch Accent vậy. Thanh minh luận của Vi Đà dựa vào độ cao thấp của thanh ấy, mà chia làm 3: Một là Udātta, hai là Svarita, ba là Anudātta. Phật giáo truyền vào Trung Quốc, giáo đồ lúc đọc tụng kinh Phật, sự phân biệt 3 thanh này cũng theo đó mà nhập vào. Thanh nhập của tiếng Trung Quốc đều phụ vần đuôi các phụ âm k, p, t, có thể thấy là loại đặc thù, mà dễ phân biệt với 3 thanh khác nhất. Bình, thướng, khứ mặc dù giữa khoảng cách âm thanh (tiếng vang/âm hưởng) cao thấp lên xuống của nó có phân biệt, nhưng muốn phân biệt các thanh ấy, thì quả thật là không dễ xác định. Cho nên chính người Trung Quốc đã căn cứ và mô phỏng việc đọc tụng kinh Phật lúc bấy giờ, phân biệt xác định chia thành ba thanh: bình, thướng, khứ. Gộp với thanh nhập, hợp thành 4 thanh vậy.”
 
(7) Tức chỉ thanh mẫu (phụ âm) bắt đầu của âm chữ Hán. Người Trung Quốc thượng cổ không quá chú trọng đến phân tích âm (âm đọc của chữ), đến thời Lục triều, do đối với âm lý Phạn văn đã được một số kẻ sĩ biết rõ, vì thế đã sản sinh thêm danh mục (tên gọi) song thanh (lặp lại âm đầu, tức hai chữ hoặc nhiều chữ có cùng thanh mẫu), điệp vần (cùng vần/láy vần), do liên quan đến làm thơ áp vần (giao vần), công tác nghiên cứu “vận” (vần) đã phát triển rất sớm, và đã có tự điển vận thơ thành bộ để chỉ ra điều đó. Nhưng bộ phận “thanh” là đến cuối nhà Đường mới xuất hiện có “chữ cái”, mà những chữ cái này đều là do Pháp sư của Phật giáo sáng chế. Trong Đông thục độc thư ký, Trần Lễ (1810-1882) nói: “Từ cuối nhà Hán đến nay, dùng song thanh, điệp vần, thiết ngữ (một cách ghép vần cổ đại, chữ trên lấy thanh, chữ dưới lấy vần, dùng hai chữ chú âm cho một chữ), vần có từng mục: đông (東), đông (冬), chung (鐘), giang (江), còn thanh thì chưa có, cuối nhà Đường Sa-môn bắt đầu công bố chỉ ra 16 chữ, gọi đây là chữ cái.” Tác phẩm Thông chí nghệ văn lược của Trịnh Tiều (1104-1162) và cuốn Ngọc hải của Vương Ưng Lân (1223-1296), đã từng ghi chép lại biểu đồ 36 chữ cái của Tỳ-kheo Thủ Ôn (cuối Đường, thời kỳ Ngũ đại). Trong Thiên vận quán cầu tập Hòa thượng Chân Không triều Minh lại nói Hòa thượng Xá Lợi triều Đường sáng tạo 30 chữ cái, sau đó Thủ Ôn lại thêm 6 chữ nữa. Mục phụ kèm Hoàng cực kinh thế giải khởi số quyết trong tác phẩm Quán vật giải thiên của Chúc Tất triều Tống từng nhắc đến 36 chữ cái của Hồ Tăng liễu nghĩa. Hoàng cực kinh thế thanh âm đồ Thượng Quan Vạn Lý chú thêm cũng nói: “Tự Hồ Tăng liễu nghĩa lấy 36 chữ cái làm chữ cái phiên thiết, dành được sự khéo léo của tạo hóa.” Mặc dù có nhiều cách nói khác nhau, nhưng chữ cái rõ ràng là do Pháp sư Phật giáo đặt ra, là điều không còn nghi ngờ gì nữa.
 
(8) Một cách chú âm truyền thống Trung Quốc, phương pháp này dùng hai chữ để chú âm một chữ khác. Chữ trên và thanh mẫu chữ được chú giống nhau, gọi là song thanh; chữ dưới và vận mẫu chữ được chú giống nhau, gọi là điệp vần. Chữ trên cần thanh mẫu, không cần vận mẫu; chữ dưới cần vận mẫu, không cần thanh mẫu, đem thanh mẫu của chữ trên và vận mẫu của chữ dưới ghép lại với nhau, chính là âm được chú. Theo khảo chứng, sau Hán Ai Đế chính là lúc Phật giáo truyền vào, người học Phạn văn khi học ghép âm đã ngộ ra nguyên tắc phiên thiết.
(9) Cái gọi là đẳng vận, theo giải thích của Triệu Âm Đường (1893-1970) trong cuốn Đẳng vận nguyên lưu (Nguồn gốc và sự phát triển của Đẳng vận học Trung Quốc): “Thế nào gọi là Đẳng vận? Nói đơn giản, chính là biểu âm tiết, trong biểu âm tiết có ô, mỗi ô ngang tính một bậc, vần chữ được điền trong mỗi bậc, chính là đại diện cho mỗi âm. Nếu chúng ta đã luyện tập thuần thục âm biểu này rồi, thì không những biết chữ vần trong từ điển vận thơ thuộc nốt nào, mà còn biết độ lớn nhỏ của chúng, đây là phương pháp lấy giản chế phức của phiên thiết, cho nên ông Ngụy Kiến Công (1901-1980) nói ông ấy luyện âm biểu”. Còn về sự sản sinh của đẳng âm, trong Âm vận học của Trương Thế Lộc (1902-1991) có nói rõ như sau: Nước ta từ xưa đến nay nói đến cách đọc âm, do song thanh, điệp vận mà thành thanh mẫu và vận mẫu, từ thanh mẫu (chữ cái) và vận mẫu đã cấu thành biểu đẳng vận, chẳng qua là muốn nói rõ cái lý của phiên thiết. Trong Đẳng vận nhất đắc ngoại thiên của Lao Nãi Tuyên (1843-1921) nói: “Phiên thiết bắt nguồn từ đời Ngụy, trước song thanh, điệp vận. Song thanh, điệp vận bắt đầu từ Lục triều, trước đẳng vận. Do phiên thiết mà thành song thanh, điệp vận; do song thanh, điệp vận mà thành đẳng vận, từng bước nới rộng từng bước mật thiết, đều nhằm làm rõ cái lý phiên thiết, cho nên cái học của đẳng vận, là từ phiên thiết thiết lập vậy”. Tra cứu cái tên của song thanh, điệp vận mặc dù khởi nguyên từ Lục triều, mà cái lý của song thanh, điệp vận và phiên thiết, từ xưa đã có. Đến cuối nhà Hán về sau, học lý (nguyên tắc) ghép âm Phạn văn Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, thế là phát sinh phiên thiết, sản sinh tự điển vận thơ và chữ cái. Ứng dụng cấp, phối hợp chữ cái và nói rõ phiên thiết, đã sinh ra cái học đẳng vận. Trần Lễ nói: Từ Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Tùy, Đường, chỉ có phiên thiết, không có cái gọi là đẳng vận. Thời Đường Tăng đồ căn cứ mô phỏng chữ Phạn (kinh Phật), lấy 36 chữ, gọi đó là chữ cái (chữ chỉ thanh mẫu, phụ âm). Người Tống dùng đó để phân phiên thiết, tự điển vận thơ thành bốn bậc (tứ đẳng), sau đó có tên là đẳng vận. Truy tìm nguồn gốc ban đầu của đẳng vận, cho rằng là có khả năng đã xuất hiện trong Phạn thư (chữ Phạn, kinh Phật). Còn cho phiên thiết là đẳng vận, thì không thể nào vậy. Phiên thiết xuất hiện trước, còn đẳng vận xuất hiện sau vậy. Thực ra Đẳng vận học chẳng qua là giảng một bước ứng dụng chữ để nói rõ phiên thiết trong vận thư (từ điển vận thơ) mà thôi, là do cái học của thiết ngữ được thay đổi mà thành. Cho nên chúng ta cần vén dấu vết cội nguồn của Đẳng vận học, tự nhiên phải nói đến phiên thiết và chữ cái.
(10) Chỉ tám loại biến hóa của danh từ, đại danh từ, vĩ ngữ, hình dung từ (tính từ) trong Phạn ngữ, tức thể cách, nay gọi là chủ cách, nghĩa là “thị” (là). Nghiệp cách, nay gọi là thụ cách, nghĩa là “bả” (cầm, nắm). Cụ cách, hoặc gọi là tác cách, nghĩa là “y” (dựa vào). Vị cách, hoặc gọi là dữ cách, nghĩa là “vị” (để, với). Tòng cách, hoặc gọi là đoạt cách, nghĩa là “tòng” (từ). Thuộc cách, nay gọi là sở hữu cách, nghĩa là “đích” (của). Vu cách, hoặc gọi là y cách, nghĩa là “vu” (ở). Hô cách, còn gọi là hô triệu thanh, nghĩa là “a” (chà, à,...).
(11) Còn gọi là Lục ly hợp thích, là giải thích sáu nguyên tắc văn phạm của từ ghép trong Phạn ngữ. Lục hợp thích, tức gồm: y chủ thích, tương vi thích, trì nghiệp thích, đới số thích, lân cận thích, hữu tài thích.
(12) Phật giáo Đông truyền Trung Nguyên, tiếp sau truyền dịch số lượng lớn kinh điển, tín đồ Phật giáo dốc sức vào việc phổ cập Phật pháp, lúc mới giảng kinh Phật, cố gắng cải biên (soạn lại) thành thể tài truyện thông tục (đại chúng), đồng thời phối hợp lấy âm nhạc thông tục ca hát ngâm vịnh, loại pháp hội giảng kinh này gọi là tục giảng. Thịnh hành ở triều Đường, Ngũ đại.
(13) Biến tức nghĩa là cải biên (thay đổi), viết lại. Lấy đề tài từ trong kinh điển Phật giáo giàu tính ký sự thần biến (thần kỳ biến hóa), và đồng thời thêm vào tự thuật chi tiết viết lại, khiến sự thông tục ấy sinh động mà phù hợp với việc giáo hóa dân chúng, gọi là biến văn.
(14) Là một loại văn hát nói, kể chuyện xen với hát (pha tạp giữa văn vần và văn xuôi) do biến văn đời Đường trực tiếp sản sinh phát triển. Được phát sinh khoảng vào thời kỳ Tống Nguyên (960-1368), nhưng thịnh hành vào Minh Thanh (1368-1840). Kết cấu nội dung của bảo quyển đại để giống với biến văn, phần lớn chọn dùng ngôn ngữ thông tục dễ hiểu, phối hợp với âm nhạc, tiến hành giảng xướng (hát nói). Tự thuật bảo quyển câu truyện Phật giáo, rất được dân gian đón nhận.
(15) Thời Minh Thanh lưu hành một loại khúc nghệ (nghệ thuật nói hát mang màu sắc địa phương lưu hành trong dân gian) ở phương Bắc Trung Quốc. Hình thức lấy “cổ” (trống, bảng) làm chính phối hợp với diễn xướng hát đệm, có nói có hát. Tên gọi xa xưa của cổ từ là đại cổ (hát nói, một loại khúc nghệ Trung Quốc, phối hợp nhạc đệm trống, bảng, đàn tam huyền). Bây giờ cũng có người nói các loại ca từ của đại cổ là cổ từ.
(16) Là biên soạn truyện thành vận ngữ (ngôn ngữ có vần điệu), có đạo bạch (nói lối trong tuồng kịch), có khúc từ (điệu hát), loại văn học hát nói dùng nhạc cụ dây phụ họa, lưu hành ở  các tỉnh miền Nam là đàn từ, thịnh hành ở các tỉnh miền Bắc là cổ từ, nguồn gốc từ Tống, Nguyên, thịnh hành vào Minh, Thanh.

Thursday, October 10, 2019

J’ai Entendu La Mer ( Ta nghe lời biển gọi )

J’ai Entendu La Mer

Christophe
Châteaux de sable sont écroulés
La plage est sale d’amours fanés
La ville est pleine de place vides
La route de guet s’est endormie .
J’ai entendu la mer
Souvent me fredonner
Tu sais je m’ennuie l’hiver !
Pourquoi passe-t-il l’été ?
Bateau perdu cherche son maître
Qui lui rendra la liberté
Le port le tient dans sa cachette
Et lui promet de la retrouver
Châteaux de sable sont écroulés
La plage est sale d’amours fanés
Bateau perdu cherche son maître
Qui lui rendra la liberté .
3bp6liejq7i
Hoàng dịch
J’ai Entendu La Mer
Ta  Nghe Lời Biển Gọi
Châteaux de sable sont écroulés
Khi giấc mộng đẹp đã tan trong ngàn sóng cuốn 
La plage est sale d’amours fanés
Chỉ còn rớt lại những mảnh tình yêu tan vỡ  hấp hối  trên bãi cát vàng 
La ville est pleine de place vides
Thành phố buồn theo điệu nhạc của tình yêu đã chết 
La route de guet s’est endormie
Con đường nào chia xẻ nỗi buồn ta đây
J’ai entendu la mer
Ta  nghe lời biển gọi 
Souvent me fredonner
Thường làm cho ta rung cảm và hồi hộp
Tu sais je m’ennuie l’hiver !
Mùa đông làm ta buồn chán 
Pourquoi passe-t-il l’été ?
Tại sao mùa hạ qua mau ?
Bateau perdu cherche son maître
Như  con thuyền lạc đi tìm người người chí  hướng 
Qui lui rendra la liberté
Ta hy vọng sẽ tìm ra chân lý của mình 
Le port le tient dans sa cachette
Đâu là bến mà ta hằng mong đợi
Et lui promet de la retrouver
Hứa sẽ tìm ra để thỏa nỗi lòng ta
Châteaux de sable sont écroulés
La plage est sale d’amours fanés
Bateau perdu cherche son maître
Qui lui rendra la liberté
2485083e9dad7c61087f84a3ff031a57
Đây là bài hát nhạc Pháp mà tôi thích nhất , bài hát thật là buồn .  Tôi rất thích biển và nhất là biển vắng . Sóng biển muôn trùng lúc cao  lúc thấp  lúc thì nhấp nhô trên bãi cát và từng đợt sóng vỗ vào bờ  cát  nổi lên những bọt sóng trắng xóa .
Khi giấc mộng đẹp đã tan trong ngàn cơn sóng …con đường nào chia sẻ nỗi buồn ta đây ?
Ôi bao muộn phiền của cuộc sống cũng giống như  con tàu lênh đênh trên biển cả bao la nó phải đối mặt với hàng ngàn cơn sóng dữ  dội  .
Biển vắng mùa đông làm nỗi buồn ta lên chất ngất , ta nghe biển sóng âm vang , ta thấy nhức nhối trong lòng . Gió thổi ầm ầm bên tai , những cột sóng chới với ,bên kia trời biển xa tít mịt mù . Biển mùa đông vắng quá trên nền tuyết phủ trắng xóa .
Tuyết hỡi thôi hãy ngưng rơi , tuyết ngưng rơi để làm gì , ta muốn nghe giá buốt mùa đông để quên nỗi thống khổ  này .
B25ba976b7a03ea26edddee171a149c2
Lời Việt
Sóng Biển Muôn Trùng
Ai xây lâu đài bãi cát mênh mông
Ôi sao thật buồn tình yêu mịt mù
Phố kia đầy người bãi cát vắng thưa rồi
Ôi bao muộn phiền nằm yên ngừng rồi
Ta nghe biển sóng âm vang
Gió hỡi thôi hãy ngưng bay
Ta nghe giá buốt quá Đông ơi
Ước muốn hãy tan đi giá băng
Biển vắng buồn tênh
Vắng bóng bao con tàu
Ra khơi mịt mờ
Từ  giã nghìn trùng
Ôi con tàu đi
Trên  sóng  chơi vơi
Thênh thang biển trời
Đời là bao gọi mời
Ta nghe biển sóng  âm vang
Tuyết hỡi thôi hãy ngưng rơi
Ta nghe giá buốt quá Đông ơi
Ước muốn giá băng mau tan đi…

Wednesday, October 9, 2019

Quách nhiên vô ngã! & Nue Comme La Mer

Tàng hình có lẽ là một trong những ước mơ muôn thủa của loài người. Từ xa xưa , ước mơ đó đã được thể hiện qua những câu chuyện thần thoại. Thông thường , tàng hình được hiểu là ẩn giấu  mình đi, không còn ai thấy nữa, nghĩa là trở thành vô hình , "vô sắc tướng".Song với một ít kiến thức về vật lý, ta cũng dễ hiểu được rằng , muốn tàng hình theo cách đó thì toàn bộ cơ thể ta , kể cả đôi mắt, phải có chiết suất tương đương với chiết suất không khí.Lúc đó thì mắt ta cũng không nhìn thấy gì cả, nghĩa là ta giống như một người mù. Nếu không thế, thì ta phải khoác một tấm áo choàng bằng loại vật liệu hoàn toàn không hấp thụ ánh sáng, nghĩa là những tia  sáng khi chạm vào nó sẽ bị "trượt" đi;hoặc ta phải di chuyển với vận tốc của ánh sáng...Đó là những điều khó có thể , đúng hơn là không thể, xảy ra trong thế giới vật lý. Ta cũng thường nghe nói đến máy bay tàng hình trong kỹ thuật quân sự dùng để chỉ những loại máy bay không bị hệ thống radar phát hiện."Tàng hình" theo nghĩa này được hiểu là chiếc máy bay vẫn tồn tại đấy song lại không bị radar"nhìn thấy".Tương tự như vậy , nếu ta có thể tồn tại và sinh hoạt mà không bị ai "trông thấy", không bị ai"cảm nhận được"thì điều đó cũng có nghĩa là ta cũng đang"tàng hình"giữa cõi đời."Tàng hình"như thế là có lẽ cực đỉnh của giáo lý vô ngã trong truyền thống tu học phương Đông.
0f6d3ccb8d9241334f87ead37f229e2e
Tàng hình không có nghĩa là trở nên vô hình , "vô sắc tướng", mà chỉ có nghĩa khi ta tiếp cận bất kỳ ai thì người đó vẫn không để ý đến sự hiện diện của ta.Ta có thể đi qua trước mặt , thậm chí đứng trước mặt một người khác mà không hề khiến họ phải suy nghĩ hay gợi cho họ một ấn tượng nào trong trí nhớ, cho nên ta không hề bị phát hiện.Về phương diện vật lý, bất kỳ hành động nào từ thân , khẩu của ta cũng đều tạo nên những làn sóng làm khơi dậy sự cảm thọ nơi người khác , và sự cảm thọ đó giúp họ biết được sự hiện hữu của ta .Hành động của thân , khẩu càng ầm ĩ , càng tạo ấn tượng ồn ào thì sự cảm thọ gây nên nơi người khác càng mạnh mẽ.
Nếu ta bước đi lặng lẽ trước mặt một đám đông thật nhẹ nhàng , với điệu bộ vô cùng khiêm cung thì ta khơi dậy nơi họ rất ít cảm xúc , và sẽ có rất ít người chú ý đến ta.Giả sử không một ai chú ý đến ta thì có thể xem như ta đã trở thành "vô hình" đối với họ.Trong thực tế, đôi khi ta vẫn trải nghiệm được điều này.Có những lúc ta nhìn vào một đám đông người hay một đống đồ vật thật lâu, nhưng ngay sau đó , khi hồi tưởng lại thì ta chỉ nhớ được một vài người hoặc một vài đồ vật, thậm chí chẳng có chút gì lưu lại trong ký ức.Có thể xem như tất cả đều đã trở thành "vô hình"đối với ta.Nhưng dù ta có bước đi lặng lẽ nhẹ nhàng đến mấy  thì những hoạt động của tinh thần vẫn luôn làm phát sinh một dạng năng lượng bao quanh ta, và ai tiếp xúc với dạng năng lượng này đều cảm nhận được nó.Dẫu ta có ngồi lặng yên không nói , dứt bặt mọi hoạt động của thân , khẩu thì hoạt động của ý thức , của tư tưởng vẫn gây nên ở người khác một sự cảm thọ cực kỳ vi tế .Nếu như ta có thể loại bỏ được tất cả hoạt động tinh thần , thì ta sẽ không làm khơi dậy bất kỳ cảm xúc nào bao quanh ta , do đó sẽ không ai cảm nhận được sự hiện hữu của ta cả, nghĩa là ta thực sự trở nên "vô hình".Hiểu theo nghĩa đó thì ta có thể xem mấu chốt quan trọng nhất của khả năng tàng hình là sự chấm dứt mọi hoạt động tinh thần phát khởi từ ý thức về tự ngã.Nếu ta còn ý niệm về "cái ta" thì ý niệm đó gợi nên sự cảm thọ về "chúng sinh tướng"nơi người khác.Muốn được vô hình thì ý niệm về "cái ta" trong mọi hoạt động của thân , khẩu , ý đều phải tiêu dung toàn triệt.Đây là điểm mà Lão Tử gọi là "thiện hành vô triệt tích".Câu này thường được dịch là "khéo đi không để vết"...
...Thơ du hý phiêu bồng của Bùi Giáng
"Phật ngồi dưới gốc Bồ đề,
Tiên nương dừng bước tóc thề chấm vai,
Thưa rằng Phật thật là tài,
Thấy mà như chẳng , tự ngoài vào trong"
"Thấy mà như chẳng , tự ngoài vào trong" có nghĩa là tất cả đều rỗng rang trong suốt, theo tinh thần của kinh Bát nhã...
"Thấy mà như chẳng , tự ngoài vào trong" chính là điểm tinh yếu của "Quách nhiên vô ngã"
5f6d8c42b95f1d14fc159312babe03aa

Nue  Comme La Mer

( Chúng Ta  Giống Như  Biển Khơi )
Christophe
Le vent , la mer ,  le soleil , et la pluie ,
C’était comme en hiver
La nuit, le froid , le feu , c’est l’éclat de ses yeux ,
Quand elle est en colère .
Ma vie souvent ,
Qu’elle a trop oubliée
C’est un cri dans mon coeur .
Et c’est le vent, la mer qui me l’ont redonné
En rêve cette nuit .
Je l’ai vue passer ,
Elle était nue comme une enfant ,
Nue comme la mer ,
Elle était nue dans la lumière .
Mon chagrin dansait
Dans ses yeux clairs
Comme une larme ,
Une larme amère ,
Qui serait tombée dans la mer …
Elle était belle ,
Je crois ,
Qu’elle était tout pour moi …
Le vent , la mer , le soleil , et la pluie ,
C’était comme en hiver .
L’amour, le froid , le feu , c’est l’éclat de ses yeux ,
Quand elle est en colère .
Ma vie souvent , qu’elle a presqu’effacé
C’est un cri dans mon coeur
Pourtant ce cri ,
Mon coeur commence à oublier
Je crois qu’elle reviendra
Je crois qu’elle reviendra .
Je l’ai vue passer ,
Elle était nue comme une enfant ,
Nue comme la mer ,
Elle était nue dans la lumière .
Mon chagrin dansait
Dans ses yeux clairs
Comme une larme ,
Une larme amère ,
Qui serait tombée dans la mer …
Elle était belle ,
Je crois ,
Qu’elle était tout pour moi …
Dịch ý
Gió , biển , mặt trời và cơn mưa ,
hệt như  mùa đông
Trong  đêm , lạnh lẽo , ánh lửa là hào quang của mắt nàng ,
khi nàng nổi giận
Cuộc đời tôi
thường bị quên lãng
Đó là tiếng khóc trong tim tôi
Và đó là cơn gió , là biển cả tôi được trao tặng
trong giấc mơ đêm
Tôi đã thấy nàng đi qua,
Trần trụi như đứa trẻ,
trần trụi như biển khơi,
nàng đã trần trụi trong ánh sáng
Nỗi đau đớn tôi nhảy múa
ngay trong mắt nàng
Như  dòng lệ,
dòng lệ đắng cay,
của kẻ rơi giữa biển khơi …
Nàng rất đẹp,
tôi đã tin
Đó là mọi thứ của tôi …
Gió, biển, mặt trời và cơn mưa,
hệt như mùa đông
Tình yêu , lạnh lẽo , ánh lửa là hào quang của mắt nàng,
khi nàng nổi giận
Cuộc đời tôi , hầu như  bị xóa sạch
Đó là tiếng khóc trong tim tôi
thế mà tiếng khóc này,
tim tôi bắt đầu quên đi
tôi tin là được
tôi tin là được
Tôi đã thấy nàng đi qua ,
trần trụi như biển khơi ,
nàng đã trần trụi trong ánh sáng
Nỗi đau đớn tôi nhẩy múa
ngay trong mắt nàng
Như  dòng lệ ,
dòng lệ đắng cay ,
của kẻ rơi giữa biển khơi …
Nàng rất đẹp ,
tôi đã tin
Đó là mọi thứ  của tôi …

CHÚNG TA LÀ NHỮNG GÌ CHÚNG TA NGHĨ

  Trích: Nghệ Thuật Tối Giản - Có Ít Đi, Sống Nhiều Hơn; Việt dịch: Alex Tu Dịch;  Người khác có thể dễ dàng đọc được niềm vui và nỗi khổ tr...