Saturday, March 4, 2023

TÀI NGUYÊN THIÊN MẪU - VASUDHARA

Vasudhara/Tài Nguyên Thiên Mẫu, vị Bồ-tát của Phật giáo về sự giàu có, thịnh vượng và phong phú/dồi dào. Vasudhara phổ biến ở nhiều quốc gia Phật giáo và là một đề tài trong truyền thuyết và nghệ thuật Phật giáo. 

Tên tiếng Phạn của Tài Nguyên Thiên Mẫu là Vasudhara/Vasudhara, có nghĩa là “nữ thần mang báu vật” hoặc “dòng chảy của đá quý”.  Ngoài ra, tên gọi Vasudhara còn biểu thị thần là nguồn gốc của tám “Vasus dồi dào/phong phú” [tám vị thần nguyên tố đại diện cho các khía cạnh của tự nhiên (Ngũ đại: đất, nước, lửa, gió, không - Pancha Bhoothas) cùng mặt trời, mặt trăng và tinh tú)]. Do đó, một số nhận định cho rằng Nữ thần là sự hào phóng nước của con sông Hằng - Nữ thần Ganga. 

Trong đó, vasu có nghĩa là thiện hoặc bảo; còn dhara có nghĩa là nắm, giữ. Trong tiếng Hán, Tài Nguyên Thiên Mẫu còn được dịch là Tài Tục Thiên Mẫu, Trì Thế Thiên Nữ, Vũ Bảo Bồ-tát hay Thế Đà La. Do có nhiều tên gọi, nên các kinh điển có những giả thiết khác nhau về nguồn gốc của Thiên Mẫu, bởi vậy thân phận vị Nữ thần sông Hằng cũng có phần khó xác định. Bên cạnh đó, Vasudhara còn được cho rằng có liên quan đến vị Nữ thần vĩ đại Lakshmi của Ấn Độ.

Câu thần chú của Nữ thần là “Om Shri Vasudhara Ratna Nidhana Kashetri Soha”, khi một người thực hành pháp tu Vasudhara, 800 câu thần chú (8 vòng của một tuần) nên được tụng đọc vào ngày đầu tiên, sau đó 300 câu thần chú (3 vòng của một tuần) mỗi ngày sau đó, một câu thần chú đáng giá của một tuần vào buổi sáng, khi có thời gian cho phép trước khi làm việc; một câu thần chú khác của tuần khi thời gian cho phép vào cuối buổi chiều/tối, có lẽ sau khi làm việc; và những câu thần chú cuối cùng của tuần trước khi ngủ, hoặc 3 tuần một lần vào bất cứ thời gian nào trong ngày. Điều này được cho rằng các tín đồ sẽ gia tăng sự tích lũy về 7 loại - đó là sự giàu có, phẩm chất, con cái, trường thọ, hạnh phúc, sự quý trọng và thông thái; cho các tín đồ của Vasudhara sự chuẩn bị tốt hơn để tu luyện hạnh bố thí, bản thân đó chính là nhân quả của sự giàu có, cũng như có đủ nguồn lực để có thể tham gia vào các pháp tu tâm linh. Việc tu tập pháp tu này được tin rằng sẽ đưa đến sự giác ngộ. Đôi khi, thần chú cũng được rút ngắn gọn lại là Oṃ Vasudhare svaha. 

Vasudhara còn là một vị thần giàu có quan trọng trong Phật giáo Tây Tạng.Thần được coi là một trong 21 Tara/Độ Mẫu, cũng được biết như là “Tara Vàng/Vàng Kim” Tây Tạng: Dolma Sermo, tên gọi khác là Norgyunma. 

Monday, February 27, 2023

NGƯỜI DÂN CAMPUCHIA ĐÓN TẾT VỚI NỮ THẦN ĐẦU NĂM

Người dân Campuchia đón tết vào giữa tháng năm theo âm lịch Khmer - lịch mặt trăng nghĩa là vào tháng tư theo lịch dương - lịch mặt trời. Đây là thời điểm quan trọng có những cơn mưa mát lành đầu tiên của năm mới xoa dịu những cái nóng nực trên mọi miền đất nước, và người dân tổ chức những nghi lễ cầu cúng để chào mừng năm mới và cầu mong mùa màng sẽ bội thu, nhà nhà tràn đầy hạnh phúc, niềm vui. Mọi người cùng đi đến chùa, tham gia các trò chơi dân gian vui nhộn, thư thái.

Dân gian Campuchia hãy còn truyền tụng một câu chuyện cổ vô cùng lý thú và ý nghĩa về nguyên sinh ngày tết của dân tộc. Câu chuyện này có những nét gần gũi với những câu chuyện cũng về nguồn gốc ngày tết của các dân tộc trong khu vực. Tựu chung, đó là chuyện Ba câu hỏi về hạnh phúc của vương thần Kabil Moha Prohm đối với Dhammabal Komar - hiện thân của Phật lúc Ngài mới bảy tuổi.

Chuyện kể rằng, xưa lắm Kabil Moha Prohm là chúa tể của các vị thần trên tiên giới (Tray Trengs). Buổi ấy, có cậu bé rất thông minh, tên là Dhammabal Komar. Khi bảy tuổi, cậu đã thông thuộc hai pho kinh lớn là Triveda gắn với Brahman thoại và Trayphup - Tam Thế. Người dân đều đến xin Dhammabal Komar những lời khuyên. Vì dòng người đông đúc nên thân phụ đã xây riêng cho cậu một nơi nghỉ dưỡng bên cạnh nhà, và nằm bên một dòng sông thơ mộng dưới bóng cây xanh. Nhờ được nghe chim hót hàng ngày, cậu đã hiểu được chim nói gì. Khắp nơi đều ca ngợi xin Dhammabal Komar, và tin ấy đã vang lên trời cao.

Vương thần rất bực bội vì cho rằng chỉ có mình là uyên bác nhất. Cả con người và thần tiên đều phải kính trọng sự thông thái của nhà vua. Vì vậy, vương thần lập tức hạ phàm. Kabil Moha Prohm kiêu ngạo cho gọi Dhammabal Komar tới và thách đố nếu cậu giải được ba câu hỏi thì nhà vua sẽ tự cắt đầu mình tôn vinh cậu là người giỏi nhất, bằng không cậu sẽ rơi đầu.

Dhammabal Komar hẹn nhà vua sau bảy ngày nữa mới nghe câu hỏi và trả lời để cậu còn suy nghĩ chuẩn bị. Trong nhiều ngày, cậu trằn trọc, lo lắng và tự nhủ lỡ không trả lời được sẽ gây họa cho mọi người, thà rằng cậu chết đi để bảo toàn cho gia dình và người dân thì hơn. Tối ngày thứ sáu, cậu rời khỏi nhà và trong cơn mệt đã ngủ thiếp đi dưới một gốc cọ cao, trên tán lá có tổ của đôi chim ưng. Tiếng chim ồn ào làm cậu thức dậy. Con chim cái hỏi chim đực: - Ngày mai, ta sẽ ăn gì nhỉ? - A, sẽ ăn thịt Dhammabal Komar - cậu bé đang nằm ngủ dưới kia, bởi vì cậu ấy sẽ chết do không giải được ba câu đố của vương thần. - Tốt. Gan người rất tốt đặc biệt là cho con chúng ta. Chập chững một lúc, nó hỏi chồng: Thế nhưng câu hỏi là gì mà khó vậy? - Vương thần sẽ hỏi Dhammabal Komar về Sirey Bei Brakar ba điểm hạnh phúc của con người nằm ở đâu”. Đầu tiên, là hạnh phúc nằm ở đâu vào buổi sáng? - Nó nằm ngay trên khuôn mặt. Chim đực trả lời. Mỗi buổi sáng khi con người thức dậy đón một ngày mới, họ hoàn toàn vui vẻ tin tưởng và niềm vui niềm hạnh phúc ánh lên trên khuôn mặt. Để cả buổi luôn vui vẻ, người ta luôn rửa mặt sạch sẽ. Câu hỏi thứ hai cũng là hạnh phúc ở đâu vào buổi trưa? - Lúc này, mọi người đã vất vả vì cả ngày lao động cực nhọc, mồ hôi đầm đìa, lúc này họ thích nhất được tắm rửa và niềm vui sẽ đọng lại trên lồng ngực mát mẻ.

Câu hỏi thứ ba là hạnh phúc ở đâu buổi tối ? - Niềm vui nằm trên đôi bàn chân. Sau một ngày mệt mỏi, người dân mong ước khi ngủ sẽ có những giấc mơ đẹp vậy nên trước khi đi ngủ, họ đều rửa chân để loại bỏ đất bẩn, cho giường chiếu thơm tho, thân thể khỏe mạnh, và đôi chân sạch chính là cái cho họ niềm vui.

Sau khi phân tích lời chim, Dhammabal Komar đã quay về nhà để dặn mọi người giữ gìn hạnh phúc và đảm bảo có niềm vui, hạnh phúc trọn vẹn. Trước câu trả lời mạnh bạo, vương thần thật sự kinh ngạc, nhà vua gọi bảy công chúa lại mà nói: Ta phải cắt đầu để giữ lời hứa đối với Dhammabal Komar. Nhưng, nếu các con chôn đầu ta xuống đất nó sẽ làm mặt đất nổ tung, nếu tung lên trời sẽ gây bão lửa không còn mưa nữa và nếu quẳng xuống biển nước sẽ cạn thành sa mạc. Chỉ có một cách đưa đầu ta lên đỉnh núi Phnom Preah Someru (núi Kailash Tây Tạng ngày nay). Vương thần cắt đầu và trao cho công chúa cả Tungsa. Nàng nhẹ nhàng đặt đầu cha vào một cái rỏ vàng, và cùng các em các thần linh đưa chiếc rỏ tới nơi tôn nghiêm nhất trên đỉnh núi rồi bao quanh đó bằng bảy lớp kính pha lê. Hàng năm, bảy tiên nữ vẫn đều đặn rước cha đi dạo quanh núi từ trên cao ngắm cảnh dân gian sôi động. Đền thờ này do đó được gọi là Phakh-vatey - Nơi tụ hội của các vị thần tiên. Một ngày, bảy tiên nữ ai cũng muốn được trực tiếp bưng rỏ vàng gần cận cha, vì thế đã cãi lộn, cuối cùng các nàng quyết định mỗi người thay nhau rước cha một lần trong năm, bắt đầu vào ngày chủ nhật sẽ là công chúa cả, thứ hai là công chúa hai.

Từ ý nghĩa trên, dân gian Campuchia đã lấy ngày các nàng tiên hiếu kính với vua cha làm ngày tết của dân tộc để chào mừng sự sống, bình yên, hạnh phúc và tình yêu. Mỗi năm, người dân chào đón một tiên nữ xuống trần khai mở đầu năm gọi là Tep-thyda Moha Sangkran - nữ thần của năm. Tất cả các sự kiện, đời sống và tâm linh trong năm đều được suy luận, gắn với tính khí, sở thích của nữ thần đầu năm mới.

Nếu mồng một tết vào chủ nhật, theo lịch âm sẽ là ngày của nữ thần Tungsa - con gái cả của vương thần Kabil Moha Prohm. Nàng vận áo đỏ, cưỡi linh điểu nửa người nửa chim garuda, đội mũ miện, tai dắt hoa lựu to-tim, đeo hạt châu botum-reak, tay phải cầm vòng chakr, tay trái cầm vỏ ốc sainkh. Nàng thích trái odhom-pur còn gọi là quả la-vea.

Nếu mồng một tết vào thứ hai, sẽ là ngày của nữ thần Kor-reakh. Nàng vận áo vàng, cưỡi hổ, tóc cài hoa angkea-bos, đeo chuỗi ngọc mokkda, tay phải cầm gươm preah-khan, tay trái cầm gậy. Nàng thích hương hoa.

Nếu mồng một tết vào thứ ba, nghĩa là ngày của nữ thần Reak-sa. Nàng vận áo hồng, cưỡi sư tử aksatarak, tóc đính hoa sen, đeo chuỗi ngọc moua-rea, tay phải cầm ba tiêu trey-sol, tay trái cầm cung tha-noo. Nàng thích máu.

Nếu mồng một tết vào thứ tư, tức là ngày của nữ thần Mun-dea. Nàng vận áo xanh lam, cưỡi ngựa vằn, tóc đính hoa đại champa, đeo chuỗi hạt pi-toor, tay phải cầm cây kim, tay trái cầm gậy. Nàng thích sữa.

Nếu mồng một tết vào thứ năm, đúng là ngày của nữ thần Kiri-nney. Nàng vận áo xanh dương, cưỡi voi, tóc đính hoa mun-dea, đeo chuỗi hạt moro-kat, tay phải cầm búa rìu kang-ve, tay trái cầm lao a-wudh. Nàng thích hạt đậu và vừng.

Nếu mồng một tết vào thứ sáu, sẽ là ngày của nữ thần Kimi-rea. Nàng vận áo trắng, cưỡi trâu, tóc cài hoa changkol-nnea, đeo chuỗi hạt bosb-reakm, tay phải cầm gươm preah-khan, tay trái cầm đàn pin. Nàng thích chuối.

Nếu mồng một tết vào thứ bảy, sẽ vào ngày của nữ thần Mo-houath-rea. Nàng vận áo tím, cưỡi chim công, tóc cài hoa tra-kiet, đeo chuỗi hạt moro-kat, tay phải cầm ba tiêu trey-soi, tay trái cầm vỏ sò sainkh. Nàng thích thịt treay.

Tùy mồng một tết trùng với ngày tiên nữ nào, người dân Campuchia sẽ sắm sửa đồ lễ cúng ứng với đồ trang sức, hoa và những món ăn mà nữ thần ấy thích. Cũng từ đó phỏng đoán các điềm trong năm: Nếu thức ăn là các loại hạt thì cả năm việc sản xuất buôn bán sẽ dồi dào, phát đạt; sức khỏe dẻo dai, sung mãn. Nếu thức ăn là máu thì năm ấy đầy cực nhọc. Nếu nữ thần mang vũ khí năm ấy nhiều xích mích, chiến tranh.

Theo truyền thuyết vào mồng một tết, các nữ thần đều đưa phụ vương đi dạo một tiếng quanh Phnom Preah Someru, sau đó sẽ tắm gột để tẩy bỏ hết ưu buồn, lo lắng. Người dân Campuchia vào năm mới cũng tắm rửa sạch sẽ cho bản thân và ông bà cha mẹ, chúc cho họ luôn mạnh khỏe, trẻ đẹp. Đồng thời tham gia các đám rước, cúng tế, đi dạo và vui chơi sôi động trên các ngả đường, chúc nhau câu nói đầu năm Choon Por Chhnam Thmei chúc anh/chị cô/ bác một năm mới tràn đầy niềm vui, hạnh phúc, an khang và thịnh vượng.

Wednesday, February 22, 2023

PHONG VỊ TẾT VIỆT

 Trích từ sách 

...Ngày 23 tháng Chạp, người ta dựng Cây Nêu.

Cây Nêu ngày Tết của người Việt có tiền thân và tên gọi từ cây tà-leo của các tộc bản nguyên Đông Nam Á (Môn Khơ –me, Tày Thái cổ). Cây Nêu mang ý nghĩa phổ quát của Cây Vũ Trụ, còn gọi là Cây Mặt Trời. Mặt trời được huyền thoại tượng trưng như cánh chim đỏ thắm đậu trên cây vũ trụ mà tượng hình trên cây nêu là túm lông gà sống thiến, miếng vải đỏ hay vật đan hình tròn mắt lưới.

Sự tích cây nêu Việt Nam là một huyền thoại cổ đã được Phật hóa về cành tre treo áo cà sa đức Phật, xua đuổi bầy quỷ dữ từ biển Đông (tượng trưng cho bóng tối, thế lực hắc ám) lợi dụng lúc cuối năm vô chủ - thần linh, ào vào đất liền tranh giành lãnh thổ của Con người. Việc dùng vôi trắng (tượng trưng cho ánh sáng) vẽ cung tên trên sân nhà hướng về Đông cũng xuất phát từ ý nghĩa đó.

Ánh sáng xua tan đêm tối, mặt trời đi ngủ đông, phải dựng nêu tà-leo để đón ánh mặt trời, để mặt trời có chỗ đậu ngay khi vừa tỉnh giấc Xuân.

Để xã hội hài hòa và tương thích với vũ trụ thì từ ngày 23 Tết mọi công việc làm ăn đồng áng, buôn bán… cũng tạm dừng. Từ đây, không ai được vào rừng khai thác, thu lượm cái gì nữa. Xưa các công thư huyện, tỉnh, trấn xứ và triều đình đều đóng cửa nghỉ việc từ hôm đó sau khi đã làm lễ “hạp ấn” (niêm phong mọi con dấu, ấn triện…). Đến nhà tù (nói chung) cũng không tiếp nhận tù nhân mới. Tóm lại đó là sự dừng nghỉ hoàn toàn, để hợp với cái chết tạm thời của vũ trụ.

Nghi thức thứ hai quan trọng của Tết sau Tết Ông Công là giây phút Giao thừa, điểm thời gian chuyển tiếp giữa năm Cũ – năm Mới, được huyện thoại quan niệm như sự giao hòa Âm – Dương, phối ngẫu Đất Trời, để từ trong cái Chết – Cũ nảy sinh sự Sống – Mới… Giao hòa, giao hợp là triết lý Phồn Thực.

Một ông Táo mới hay cũ mà đổi mới, lại xuống trần thế làm chủ nhà – bếp – đất một năm mới. Người ta bầy cỗ cúng ở ngoài sân để đón ông, mừng ông. Người ta còn thay những Ông Đầu Rau cũ bằng những Ông mới.

Sự sống hồi sinh

Tín ngưỡng cơ bản của người tiểu nông Việt Nam trồng lúa nước cổ truyền, pha đậm đặc thêm bởi ảnh hưởng Đạo Nho là sự thờ cúng Tổ Tiên.

Tháng 12 lịch cổ truyền là tháng Lạp – Chạp, người đi “chạp mả”, sửa sang, thắp hương trên các mộ phần, khấn khứa mời ông bà ông vải tổ tiên về ăn tết cùng con cháu…

Cùng với mâm cỗ cúng Ông Táo cũ 23 tết là cỗ cúng tổ tiên. Cùng với mâm cỗ cúng đón Ông Táo mới phút giao thừa ngoài sân là mâm cỗ cúng Tổ Tiên trên bàn thờ trong Nhà, gian giữa.

Và 3 ngày hay 5 ngày đầu năm mới là 3-5 ngày thường xuyên sửa cỗ cúng Tổ Tiên. Tổ Tiên hưởng hương hoa còn con cháu thụ lộc trong tinh thần cộng cảm, gia đình – thân quyến...

Tuesday, February 14, 2023

LỄ VALENTINES VỚI BỔN TÔN CỦA TÌNH YÊU KURUKULE

 LỄ VALENTINES VỚI BỔN TÔN CỦA TÌNH YÊU KURUKULE

Với những hành giả cư sĩ đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm bạn đời, Đức Tác Minh Phật Mẫu có thể rất hữu ích. Chính vì lý do này, Ngài nổi tiếng với nhiều người là "vị Bổn tôn của tình yêu". Có nhiều người độc thân đang không tìm được bạn đời. Nhiều người trong số họ đến thỉnh cầu sự giúp đỡ từ các Rinpoche Tây Tạng. Những vị Rinpoche này, vì lòng bi mẫn, gợi ý rằng họ cần trì tụng thần chú Tác Minh Phật Mẫu.
Tác Minh Phật Mẫu – Tara Đỏ ( Red -Tara)   đặc biệt che chở cho chúng sinh thoát sự yếu đuối. Ngài tiêu diệt sự yếu đuối trong con người và đem lại cho họ sức mạnh.

For lay people who are experiencing difficulty finding a spouse, Kurukullā can be of help as well. It is for this reason that Kurukullā, is known to some as ‘the personal deity of love.’ There are many single men and women who are having a hard time finding their match. Many of them ask for help from their Tibetan Rinpoches. These Rinpoches, out of compassion for them, suggest that they recite the Kurukullā mantra
~ Khenpo Sodargye

Saturday, January 28, 2023

Tiếng Xuân

TIẾNG XUÂN - LÀNG MAI

Tác giả: Chân Trăng Hương Tích
🌼🌼🌼

Lắng nghe trong gió mùa xuân đến.
Mát cả khung trời đất dậy hương.
Sương đêm choàng ngủ còn say giấc.
Chim đã trên cành vui líu lo.
Đâu cành lộc mới vươn song cửa.
Lay giấc mai hồng ai đó quên.
Vũ trụ xôn xao bừng nắng dậy.
Mai nở vườn ai trắng cả trời.
Ai đi trong gió mùa xuân ấy.
Mới cả tình xuân mới cả lòng.
Bàn tay ai đặt lên cung ấy.
Nghe tiếng mùa xuân vươn lộc non.
Nghe cả lòng ai đương mở cửa.
Nghe cả đất trời sức sống vươn.
Nghe trên nét bút người thi sĩ.
Họa bức xuân tươi giữa nắng hồng.

Sunday, January 22, 2023

HOA TÀN HOA NỞ CHỈ LÀ XUÂN

Chúc mừng năm mới 

Tết đến với ta như một ánh chớp trong cơn mưa 

HOA TÀN HOA NỞ CHỈ LÀ XUÂN

Xuân đến Xuân đi nghi Xuân hết
Hoa tàn hoa nở chỉ là Xuân.
Xuân lai Xuân khứ nghi Xuân tận
Hoa lạc hoa khai chỉ thị Xuân.
(Thiền sư Chân Không, 1046-1100)
Tất cả hoa nằm trong mùa xuân không sanh không diệt, không đến không đi nên tất cả hoa cũng không sanh không diệt không đến không đi, cũng vẫn chỉ là mùa xuân không sanh không diệt, không đến không đi ấy. Tất cả hoa là mùa xuân, mà một hoa cũng là mùa xuân, vẫn chỉ là xuân.
Trong thật tướng, hoa không nở không tàn, không đến không đi:
Không những mùa xuân không đến không đi, không sanh không diệt, mà những biểu lộ muôn hoa của nó cũng không đến không đi, không sanh không diệt.
Tất cả hoa vẫn chỉ là mùa xuân không đến không đi, không sanh không diệt. Đây là một mùa xuân bất tận, không đến không đi, cho nên tất cả hoa trong đó đều không nở không tàn, không đến không đi, vẫn chỉ là mùa xuân ấy. Tất cả hoa là mùa xuân bất tận, và mỗi một hoa cũng là mùa xuân bất tận, ngoài mọi đến đi, sanh diệt, cũng chỉ là xuân.

Wednesday, December 28, 2022

Tìm hiểu 𝐕𝐞̂̀ Đ𝐮̛́𝐜 𝐏𝐡𝐚̣̂𝐭 𝐐𝐮𝐚𝐧 𝐀̂𝐦 Đ𝐨̣̂ 𝐌𝐚̂̃𝐮 Green 𝐓𝐚𝐫𝐚 - Lục Độ Mẫu hay còn có tên là Tara xanh

𝐂𝐚́𝐜𝐡 𝐓𝐡𝐢𝐞̂̀𝐧 Đ𝐢̣𝐧𝐡 𝐕𝐞̂̀ Đ𝐮̛́𝐜 𝐏𝐡𝐚̣̂𝐭 𝐐𝐮𝐚𝐧 𝐀̂𝐦 Đ𝐨̣̂ 𝐌𝐚̂̃𝐮 𝐓𝐚𝐫𝐚

🌿 Tất cả công hạnh của chư Phật trong hình thức Phật Mẫu tính như Đức Độ Mẫu Tara nhằm giúp chúng sinh thành tựu cả công hạnh tuyệt đối và tương đối. Thiền định về Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara sẽ đem lại kết quả nhanh chóng thành tựu tâm nguyện vì lợi ích của hết thảy tha nhân và chúng sinh vạn loài. 𝑺𝒂𝒖 đ𝒂̂𝒚 𝒄𝒂́𝒄𝒉 𝒕𝒉𝒖̛́𝒄 𝒒𝒖𝒂́𝒏 𝒕𝒖̛𝒐̛̉𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒕𝒓𝒊̀ 𝒕𝒖̣𝒏𝒈 𝒄𝒉𝒂̂𝒏 𝒏𝒈𝒐̂𝒏 Đ𝒖̛́𝒄 𝑷𝒉𝒂̣̂𝒕 𝑸𝒖𝒂𝒏 𝑨̂𝒎 Đ𝒐̣̂ 𝑴𝒂̂̃𝒖 𝑻𝒂𝒓𝒂:

✨
Bạn hãy ngồi thư giãn tĩnh tâm, quán tưởng trong hư không phía trước bạn là Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara hiện thân của tất cả những năng lực tích cực.
✨ Thân của Ngài tỏa sáng màu xanh lục bảo trắng mờ và tỏa chiếu ánh hào quang rực rỡ.
✨ Chân trái của Ngài co lên nêu biểu sự kiểm soát hoàn toàn với những năng lượng ái dục, chân phải của Ngài duỗi ra nêu biểu Ngài đã sẵn sàng đứng ra để giúp đỡ tất cả chúng sinh, tay trái của Ngài đặt trước tim trong tư thế ấn quy y, lòng bàn tay của Ngài hướng ra ngoài, ngón cái và ngón đeo nhẫn chạm vào nhau và ba ngón khác dựng thẳng.
✨ Tay phải của Ngài đặt trên đầu gối phải trong tư thế ban gia trì sự chứng ngộ siêu việt, lòng bàn tay của Ngài hướng ra ngoài với những ngón tay hướng xuống một cách thoải mái, trong mỗi tay Ngài giữ một cành hoa sen xanh.
✨ Khuôn mặt Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara rất đẹp, mỉm cười trìu mến với bạn. Ngài vận tơ lụa thiên y và trang hoàng bảo báu ngọc quý.
✨ Tiếp đến hãy nghĩ đến những chướng ngại của bạn, mọi tâm nguyện và mong muốn của bạn. Hãy nhất tâm cầu nguyện lên Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara từ đáy tim mình và thỉnh cầu Ngài ban gia trì.
✨ Ngài sẽ đáp lại ngay bằng cách truyền vào bạn luồng ánh sáng theo từ trán Ngài vào trán bạn xua đi tất cả những chướng ngại và những sự tiêu cực của thân, ánh sáng đỏ từ cổ họng của Ngài chiếu vào cổ họng của bạn loại bỏ tất cả những chướng ngại tiêu cực của khẩu, ánh sáng xanh từ tim của Ngài chiếu vào tim bạn loại bỏ tất cả những chướng ngại tiêu cực của tâm.
✨ Nếu muốn bạn có thể tụng chân ngôn của Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara 𝐎𝐌 𝐓𝐀𝐑𝐄 𝐓𝐔𝐓𝐓𝐀𝐑𝐄 𝐓𝐔𝐑𝐄 𝐒𝐎𝐇𝐀 trong khi thực hành quán tưởng.
✨ Đức Độ Mẫu Tara sẽ tới trước mặt bạn về phía trên đầu bạn nhìn cùng hướng với bạn Ngài hòa tan trong ánh sáng xanh, nó sẽ xuyên qua đỉnh đầu của bạn vào tim bạn. Nơi mà tâm thức của bạn an trú, tâm của bạn trở nên bất khả phân với Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara và bạn trải nghiệm sự rõ ràng quang minh, bình đằng và hỷ lạc, hãy an trú trong trạng thái này càng lâu càng tốt.
✨ Khi kết thúc mỗi thời khóa, hãy hồi hướng những năng lượng mà bạn trải ra cho tất cả chúng sinh để họ có thể đạt được đại giải thoát vô minh và đau khổ.

Monday, December 26, 2022

NHƯ MỘT TIA CHỚP

NHƯ MỘT TIA CHỚP

ĐỐI THOẠI GIỮA KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO
MATTHIEU RICARD – TRỊNH XUÂN THUẬN
BS: Hồ Hữu Hưng dịch
---🍂🌿🍂---
Như Một Tia Chớp - Trong Đám Mây Mùa Hạ - Sự Vô Thường Giữa Lòng Thực Tại
Sự vô thường của các hiện tượng không những là một đề tài thiền quán để khuyến khích chúng ta sử dụng cho thật tốt khoảng thời gian chúng ta còn sống trên thế gian. Đấy là điểm căn bản để hiểu thực tại. Từ sự vô thường đó chúng ta mới có được nhận thức về bản thể tối hậu của sự vật và điều chỉnh lối sống của chúng ta. Có chăng trong vũ trụ những thực thể hằng hữu, nghĩa là có tự tính? Nếu tất cả đều vô thường như Phật giáo đã nêu rõ và khoa vật lý có vẻ đã chấp nhận thì nhận thức ấy phải tác động thế nào đến với đời sống chúng ta?
Matthieu: Theo Phật giáo, sự tương thuộc gắn liền mật thiết với sự vô thường các hiện tượng. Ta có thể phân biệt sự vô thường “thô” như thay đổi thời tiết, núi lở, trẻ già, dao động tình cảm và sự vô thường “tế” chỉ xảy ra trong thời gian một sát na. Trong mỗi sát na, mọi vật đều thay đổi. Nếu nhìn nhận sự thay đổi là cùng khắp và không thể tránh được, chúng ta sẽ hiểu rằng vũ trụ không phải được tạo thành bởi những thực thể rắn chắc và riêng biệt, mà bằng những làn sóng chuyển động luôn luôn tác động hỗ tương lên nhau. Chúng ta đã thấy rằng cái mà chúng ta gọi là vật chất phải được cảm nhận dưới nhiều dạng khác nhau: sóng, hạt hoặc khối năng lượng cùng tồn tại vào một thời điểm nhất định. Điều này cho thấy tính cách vô thường của các hiện tượng. Vậy thì khoa học nói gì về tính lâu dài của các hạt, các quark. Có phải là các hạt quark là căn bản và hằng hữu như vẫn thường nói không?
Thuận: Để trả lời câu hỏi này tôi cần phải nói chi tiết về khoa học các quark. Để giải thích sự đa dạng của các hạt, các nhà vật lý đã phải nghĩ đến nhiều loại quark, mỗi thứ có hai đặc tính được gọi là “màu” và “vị”. Đây chỉ là hai danh từ trừu tượng chứ không phải màu và vị trên thực tế. Có ba loại quark mỗi loại có hai vị và ba màu và như vậy ta có tất cả 18 chủng loại quark. Vật chất thông thường gồm những quang tử và trung hòa tử của các nhân nguyên tử. Vật chất của con người chúng ta hay các loại hoa chỉ gồm các loại quark chỉ có hai vị gọi là “vị trên” và “vị dưới”. Các loại quark chỉ xuất hiện trong các máy gia tốc các hạt có năng lượng cao. Để trả lời câu hỏi của bạn, các quark cùng loại đều có thể đổi vị. Một quark “vị trên” có thể biến thành quark “vị dưới” và ngược lại. Các quark cũng có thể thay đổi thể loại khi nào điện tích của chúng thay đổi.
Matthieu: Như vậy quark có thể thay đổi và không có thể hằng hữu.
Thuận: Đúng vậy và điều này cũng kéo theo sự thay đổi của các quang tử và trung hòa tử tạo nên chúng. Và như vậy khi một quark “vị trên” trở thành một quark “vị dưới”, quang tử sẽ trở thành trung hòa tử đồng thời phát ra một dương tử và một neutrino (hạt không có khối). Khi tôi đang nói đây, hằng trăm tỷ neutrino có từ thuở vũ trụ lập thành đi xuyên suốt con người tôi mỗi giây đồng hồ.
Matthieu: Vậy thì quark không phải bất biến về bản thể cũng như không hằng hữu về mặt tồn tại. Và như thể chúng ta xa dần quan điểm “hạt bụi tối hậu”. Tuy nhiên các nhà vật lý có nghĩ đến những hạt hằng hữu nếu ta không tác động lên chúng không?
Thuận: Trong số hàng trăm hạt mà người ta biết, chỉ có vài hạt là có thể tồn tại vĩnh hằng. Đa số các hạt xuất hiện trong các máy gia tốc đều không ổn định và biến mất trong chớp mắt khoảng một phần triệu giây hay ít hơn. Khi ta giải thoát một trung hòa tử, nó chỉ tồn tại khoảng 15 phút trước khi đột nhiên biến thành quang tử và loại ra một antineutrino. Nhưng nếu trung hòa tử nằm im trong nhân nguyên tử nó cũng sẽ bất diệt. Rất may cho cơ thể chúng ta, vì nếu không thân thể chúng ta sẽ tan rã trong vòng 15 phút. Nếu được để yên mà không bị các hạt khác bắn phá chỉ có điện tử, quang tử và neutrino là bất diệt mà thôi.
Matthieu: Làm thế nào để chứng minh sự bất diệt đó?
Thuận: Ta không thể đo lường sự bất diệt đó, nhưng ta có thể đặt được những cột mốc thời gian rất dài có thể sánh ngang được với sự vĩnh hằng. Với thuyết được giới vật lý gọi là “Thuyết chuẩn” để giải thích về các hạt thì không cần đặt ra giả thuyết về sự diệt vong của điện tử, quang tử và neutrino. Còn về các dương tử những giả thuyết gần đây đã tiên đoán một thời gian tồn tại ước tính khoảng hằng tỷ tỷ năm tuổi của vũ trụ. Để kiểm chứng điều này không thể chờ 1030 năm trước khi thấy một dương tử mất đi. Nếu thời gian tồn tại của dương tử là 10-30 năm thì chỉ cần gom lại 1030 dương tử trong cùng một nơi để thấy mỗi năm mất đi một dương tử. Hay hơn nữa, nếu ta gom 1030 dương tử trong khoảng trống có tường bao kín ta sẽ thấy vài dương tử biến đi mỗi ngày. Các nhà vật lý Nhật Bản và Mỹ đã đổ đầy 50 tấn nước trong một cái thùng vĩ đại - nước chứa rất nhiều dương tử - để quan sát sự tan biến các dương tử. Cái thùng nước này được đặt trong một hầm mỏ ở thành phố Kamioka dưới mặt đất 1km để tránh những tia vũ trụ. Thử nghiệm bắt đầu từ tháng 4/1996 nhưng cho đến nay không một ai nhận thấy được một dương tử nào mất đi. Điều này có nghĩa là thời gian tồn tại của một dương tử lâu hơn thuyết chuẩn nói trên đã tiên đoán. So với đời sống con người, hơn 1030 năm có thể so sánh được với vĩnh hằng.
205251-cai-vo-han-trong-long-ban-tay-1
Matthieu: Dù sao cũng chưa hẳn là vĩnh hằng thật sự. Dù rằng điện tử và neutrino trên lý thuyết là bất diệt, chúng cũng có thể biến dạng nhất là khi chúng bị các hạt khác bắn phá.
Thuận: Đúng vậy. Cho đến nay tôi đã nói về sự tan biến đột nhiên của các hạt. Nhưng ta có thể làm chúng mất đi khi bắn phá chúng, hoặc cho các hạt khác tác động lên chúng. Một dương tử khi tác động lên một điện tử, trở thành một trung hòa tử kèm theo một neutrino. Hãy tưởng tượng một quang tử mặt trời, khi nó tác động lên cái bàn này chẳng hạn, nó sẽ mất đi một phần năng lượng, bản chất nó không thay đổi. Hoặc giả nó mất hết năng lượng và biến mất khi cái bàn sẽ nóng lên.
Matthieu: Nó mất đi thật ư? Như vậy rõ ràng là các hạt đều vô thường và sớm muộn cũng sẽ mất đi.
Thuận: Có thể nói như vậy. Hoặc là các hạt vật chất không ổn định và sẽ tự tan rã, hoặc là nếu chúng ổn định, các hạt khác có thể tác động lên chúng, làm chúng biến dạng hoặc tan mất. Tuy nhiên, tôi lập lại là vật chất ổn định, nếu để tự nhiên sẽ không thay đổi. Bạn sẽ không thấy bình hoa trước mặt tan biến đi một cách bất thình lình chứ?
Matthieu: Chỉ là vấn đề thời gian và nhận thức. Cái mà bạn gọi là vật chất ổn định thay đổi liên tục, vì nếu không nó sẽ không già và không tàn lụi đi.
Thuận: Đúng thế. Mỗi vật nếu để nguyên trạng sẽ mòn dần và tan rã theo thời gian. Đó là luật thứ hai của “Nhiệt động học” theo đó, tổng trị số các xáo trộn trong vũ trụ phải luôn luôn tăng lên chớ không hề suy giảm.
Matthieu: Sự thay đổi liên tục đó, ta gọi là sự vô thường tinh tế. Nếu không có sự vô thường này, vạn vật sẽ không bao giờ thay đổi. Nếu một vật luôn luôn giữ nguyên trạng thái dù là trong một thời gian ngắn, nó sẽ mãi mãi không bao giờ thay đổi. Sự băng hoại của một vật nằm ngay trong chính bản thân nó. Sự vô thường nằm ngay trong trung tâm luật nhân quả.
Điều đáng kể là không một vật gì, dù là hạt hay một thực thể nào khác trong vũ trụ đều không thường hằng tuyệt đối. Đây là một điểm cốt yếu để chỉ ra bản thể các hiện tượng. Vấn đề cốt tủy là biết được thực tại có phải được tạo thành bởi những nguyên tố bất diệt có tự tính. Nếu quark mà bạn xem là căn bản của vật chất– dù rằng hiện nay đã có 18 loại quark là thường hằng, thì nó không cần nguyên nhân nào khác ngoài chính bản thân nó để tồn tại. Nhưng như Long Thọ đã nói: “Nếu các hiện tượng là độc lập thì chúng không tùy thuộc vào nguyên nhân hay điều kiện nào khác, và nếu như vậy thì luật nhân quả không thể áp dụng được”. Bất cứ vật gì không thể tự nó có được và nếu nó tùy thuộc vào một nguyên nhân khác để xuất hiện thì nó phải vô thường. Phật giáo kết luận rằng thực tại luôn luôn thay đổi không những trên bình diện vĩ mô có thể nhận biết được, mà còn trên bình diện vi mô theo không gian và thời gian. Đặc tính mà ta gán cho chất quark chỉ là một sự tưởng tượng vì quark cũng vô thường.
Thuận: Tôi còn có thể thêm rằng nếu xem quark như là một sản phẩm của tâm trí, ta có thể hiểu được động ứng của các hạt vi mô.
Matthieu: Như vậy thực tại không hề cứng nhắc như chúng ta vẫn tưởng.
Thuận: Để bổ sung cuộc thảo luận của chúng ta, tôi muốn trở lại thuyết các sợi siêu dẫn. Thuyết này mô tả những quark không phải như những điểm toán học, mà là những sợi cực nhỏ luôn rung động. Thuyết này có tham vọng hợp nhất hai thuyết lớn của thế kỷ 20: thuyết hấp dẫn diễn tả những hiện tượng cực lớn và thuyết cơ học lượng tử để diễn tả những cái cực nhỏ. Sự không dung hợp được hai thuyết này là một trở ngại lớn cho nhận thức chúng ta về vũ trụ. Nếu ta có thể kết hợp chúng lại, ta sẽ có một lý thuyết hấp dẫn lượng tử có thể hợp nhất bốn lực căn bản của thiên nhiên thành một lực duy nhất. Bốn lực căn bản của thiên nhiên là lực điện từ, hai lực nguyên tử mạnh và yếu và lực hấp dẫn.
Thuyết các “sợi siêu dẫn” là thuyết cuối cùng được đề nghị để giải thích mọi hiện tượng trong vũ trụ. Theo thuyết này, không phải những hạt được xem như là nguyên tố căn bản của vật chất mà là những đầu sợi siêu dẫn cực nhỏ chỉ dài 10-33 phân nghĩa là chiều dài Planck. Nếu sánh với một nguyên tử thì sợi siêu dẫn như một gốc cây so với vũ trụ. Những hạt vật chất cũng như ánh sáng chuyển tải những lực thiên nhiên của vũ trụ và làm mọi thứ thay đổi, chỉ là những biểu hiện của các sợi siêu dẫn. Cũng giống như sự rung động của các sợi dây trên một vĩ cầm tạo thành những âm thanh và những dư âm, sự rung động của các sợi siêu dẫn biểu hiện dưới dạng các dương tử, điện tử, trung hòa tử v.v...
Năng lực của sự rung động sẽ xác nhận khối của hạt. Rung động càng mạnh thì khối càng lớn. Các sợi thì cơ bản giống nhau, chỉ có sự rung động là khác. Như dương tử chỉ là biểu hiện của sự rung động ba sợi, mỗi sợi là một quark. Khi proton được các máy đo phát hiện thì người ta sẽ biết được khối, điện tích và cả spin (xoay vòng) của nó. Và nếu hiểu như thế, các sợi siêu dẫn liên tục rung động chung quanh ta và thế gian là một bản giao hưởng vĩ đại.
Matthieu: Những thay đổi đó chỉ ra rằng các sợi siêu dẫn cũng không phải là dương tử, điện tử, và trung hòa tử. Và từ đó dẫn đến kết luận của Phật giáo về vật chất: đặc tính của các vật thể không hề thuộc hẳn về chúng. Chỉ là sự giao động liên tục biểu hiện qua nhiều hình thức mà thôi.
Thuận: Các hạt không tự tồn tại được vì lẽ cùng một sợi dẫn, ta có nhiều biểu hiện khác nhau tùy theo tần số rung động. Khi rung động theo một chiều hướng nào đó, nó là quang tử và khi đổi tần số rung động thì nó thành một graviton.
Matthieu: Nếu các hạt chỉ là những sự rung động của các sợi, như vậy các sợi có hiện hữu thường hằng không?
Thuận: Những sợi thay thế các quark như là những thực thể căn bản, nhưng trong thử nghiệm khi thì chúng xuất hiện dưới dạng sóng, khi thì dưới dạng sợi. Thay vì như những điểm toán học không kích thước, chúng có dạng như những sợi cực nhỏ đến độ như những điểm, trong các máy đo tối tân nhất. Nhưng chúng lại có những kích thước ẩn. Theo một thuyết các sợi thuộc một vũ trụ có 10 chiều với 9 chiều không gian và 1 chiều thời gian. Trong một thuyết khác, vũ trụ có 26 chiều với 25 chiều không gian và một chiều thời gian. Hiện nay chúng ta chỉ có 3 chiều không gian, phải giả thiết là 6 hoặc 22 chiều không gian phụ thuộc cuộn lại vào nhau để trở nên cực nhỏ (10-33 phân) không thể nhận biết được.
Matthieu: Như vậy bản thể của các sợi dao động là gì?
Thuận: Người ta có thể xem một sợi dẫn có đặc tính nhờ vào độ căng và năng lượng của nó. Hai sợi dẫn cùng rung động theo một cách lại cho ra những hạt khác nhau nếu độ căng các sợi dẫn khác nhau, vì lẽ như vậy năng lượng của chúng cũng khác nhau.
Matthieu: Những sợi dẫn đó có bất khả phân hay là chúng có thể đứt lìa và ráp nối lại được.
Thuận: Những sợi dẫn không tồn tại bất động và riêng biệt. Chúng tác động lên nhau, nối kết và phân chia nhưng bề dài của chúng không thể dưới 10-33 phân tức là chiều dài Planck. Hai đầu của một sợi có thể ở dạng tự do hay nối kết lại thành một cái vòng hoặc hai sợi có thể phối hợp nhau để cùng tạo thành một cái vòng.
Matthieu: Như vậy thật sự các sợi dẫn có phải là những thực thể riêng biệt không? Theo Phật giáo nếu phân tích đến cùng cực thì vật thể biến mất. Tuy nhiên thuyết về các sợi dẫn vẫn phản ánh ý niệm một thực tại cảm nhận được tự hiện hữu và riêng biệt.
Thuận: Đúng vậy. Khi các hạt mất đi, thì các sợi thay thế.
Matthieu: Gần đây tôi có dịp nói chuyện với Brian Greene, một chuyên gia về sợi. Tôi có hỏi ông, một sợi có thể nào tự mình tồn tại mà không liên hệ với một vũ trụ nào đó. Theo Greene thì thật ra không có ý niệm chia rẽ sợi và vũ trụ, vì vũ trụ phản ánh sự có mặt của sợi.
Thuận: Nếu thuyết này đúng thì không thể có một vũ trụ không sợi? Matthieu: Người ta lại có thể tự hỏi vì sao các sợi rung động?
Thuận: Theo thuyết lượng tử, một sợi không bao giờ có thể nằm im một chỗ, nếu không người ta có thể biết được một cách chắc chắn vị trí và vận tốc của nó, điều này không thể xảy ra.
Matthieu: Như vậy vì sao cách rung động các sợi lại có thể thay đổi? Cái cách mà chúng rung động là đặc tính riêng của chúng, như vậy chúng không có một đặc tính bất biến nào? Cũng theo Brian Greene, các sợi có thể tác động lên nhau và những tác động đó tạo nên cách rung động của chúng. Những đặc tính của hạt như (khối, điện tích và spin) tùy thuộc vào cách rung của sợi và như vậy không thuộc về hạt. Nhưng sợi cũng rung động khác nhau do đó cũng không thể tự có các đặc tính đó. Về điều này Brian trả lời rằng: “Có thể là anh có lý. Sợi giống như một con tắc kè. Nó có thể trở thành bất kỳ một hạt nào tùy theo sự rung động của nó”. Một thực thể nếu gồm có các nguyên tố tự có dù đó là hạt hay là sợi gợi lên ý những thực thể bất biến. Tuy nhiên hạt hay sợi đều có thể thay đổi, do đó theo Phật giáo không thể tìm ra được bản thể của thực tại.
Thuận: Đừng quên rằng thuyết siêu sợi chỉ là một ý niệm khác thường có thể sai lầm. Hiện nay khó mà kiểm chứng nó bằng thử nghiệm được vì muốn thế ta cần phải sử dụng đến những năng lượng cao hơn rất nhiều năng lượng mà ta có được trong các máy gia tốc mạnh nhất hiện nay. Hơn nữa lý thuyết này lại bị che phủ bởi một bức màn toán học càng ngày càng dày đặc, do đó nó càng xa rời thực tại. Và như chúng ta biết, khoa vật lý nếu không được kiểm nghiệm thì chỉ là siêu hình thôi.
Nhưng tôi cũng thú nhận tôi hơi tò mò về ý niệm sự vô thường ngay trong lòng thực tại. Thật ra ngoài sự vô thường có thể nhận biết trong thế giới vi mô, người ta có thể nhận biết sự vô thường trong toàn vũ trụ. Và cái quan niệm về sự thay đổi liên tục nằm trong vũ trụ học hiện đại. Tuy nhiên thuyết Big Bang chỉ có tính cách thuyết phục từ năm 1965 với sự khám phá ra ánh sáng hóa thạch. Trong những năm 50 thuyết một vũ trụ bất biến không thay đổi theo thời gian và không gian rất đỗi thịnh hành. Cũng nên ghi nhận rằng, sự trái nghịch giữa ý niệm một vũ trụ luôn thay đổi đã nảy sinh từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên trong Cổ Hy Lạp với Heraclite chủ trương một vũ trụ luôn thay đổi và mọi vật đều chuyển động không ngừng và vô thủy vô chung. Trái lại, Parmenide cho rằng sự thay đổi không thích hợp với sinh vật mà theo ông là duy nhất và trường cửu.
Matthieu: Theo Parmenide, nếu bất cứ cái gì đều thay đổi, thì sự xuất hiện của cái gì không có từ trước có thể thể hiện được. Tuy nhiên cái gì đã không có, thì không thể bắt đầu có được. Như vậy sự thay đổi là không thể có được. Quan điểm này cũng giống như quan điểm cho rằng: “Quả đã có sẵn trong nhân do đó không có gì mới có thể xuất hiện được”. Phật giáo đã trả lời rằng nếu quả đã có sẵn trong nhân và không hề khác với nhân, thì nên dùng tiền của bạn để mua hạt bông vải về mặc, vì lẽ bạn cho rằng quần áo đã có sẵn trong hạt bông vải rồi.
Thuận: Aristote đã đưa vào hệ tư tưởng của ông ý niệm biến và bất biến. Theo ông sự thay đổi gắn liền với trái đất và mặt trăng ở đó có sự sống, sự hủy hoại và sự chết, còn sự không thay đổi thì gắn liền vào mặt trời và các vì sao mà theo ông là bất biến và trường cửu.
Vào thế kỷ 17, Newton đã xô ngã thuyết này của Aristote bằng việc khám phá luật hấp dẫn đã chứng minh sự chuyển động của trái đất và của các vì sao chung quanh mặt trời. Và như vậy trời cũng như đất đều thay đổi.
Matthieu: Điều này cũng không ngăn Newton viết trong quyển Optique: “Tôi nghĩ rằng lúc sơ khai, Thượng đế đã tạo ra vật chất bằng những hạt rắn chắc, di động có hình dáng và kích thước cũng như những đặc tính khác rất cứng đến độ không thể mòn hay vỡ được. Và như vậy không thể có quyền lực nào có thể chia cắt cái mà Thượng đế đã tạo ra”. Và như vậy là Newton cũng chủ trương một sự thường hằng trong lòng thực tại.
Thuận: Thật ra những nhà bác học đã khai mở khoa học Tây Âu từ Galilée đến Newton qua Kepler đều có ý niệm một Thượng đế sáng tạo một vũ trụ hoàn hảo, bất biến và trường cửu. Nhưng với sự tiến bộ, khoa học đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng vũ trụ luôn thay đổi và ý niệm một vũ trụ bất biến là không chấp nhận được. Các vì sao sinh ra, tồn tại bằng cách đốt nhiên liệu hydro và helium của chúng và sau đó chết đi và giải phóng trong khoảng không vô tận một loại hơi có nhiều hóa chất. Chất hơi này theo luật hấp dẫn lại tạo thành một thế hệ ngôi sao mới và cứ thế tiếp nối. Đó là những chu kỳ sống và chết tiếp diễn hằng triệu, hằng tỷ năm. Mặt trời xuất hiện cách nay 4 tỷ rưỡi năm tức là 11 tỷ năm sau Big Bang là một ngôi sao thế hệ thứ ba. Và những thiên hà gồm hàng trăm tỷ ngôi sao cũng thay đổi theo thời gian.
Hơn nữa, không có gì đứng im trong không gian. Luật hấp dẫn đã làm cho các ngôi sao, các thiên hà cuốn hút lẫn nhau trong sự trương nở của vũ trụ. Và như vậy trái đất của chúng ta tham dự vào một vũ hội ba lê vũ trụ. Trái đất quay xung quanh mặt trời với vận tốc 30km/giây và mặt trời mang theo trái đất trong cuộc hành trình xung quanh dãy Ngân hà với tốc độ 230km/giây. Dãy Ngân hà rơi với tốc độ 90km/giây xuống chòm sao Andromède. Và cả dãy Ngân hà và Andromède cùng rơi với vận tốc 600km giây đến Kim tinh và cả Kim tinh cũng rơi xuống một dãy ngân hà khác. Và như vậy là bầu trời tĩnh và bất biến của Aristote đã không tồn tại. Mọi hiện tượng đều vô thường, biến dịch và thay đổi.
Matthieu: Mục đích của Phật giáo hoàn toàn khác với khoa Vật lý. Vật lý dừng lại ở việc mô tả các hiện tượng, còn Phật giáo là cố gắng làm tan biến sự luyến ái của chúng ta với hiện tượng, với người khác, với sinh vật, với thiên nhiên, với sự kiện, với mọi vật thể và với cả chính chúng ta nữa. Vì khi chúng ta còn tin là các hiện tượng đều thật thì sẽ có hạnh phúc và đau khổ.
Như DharmaKirti đã viết: - “Khi đã có cái tôi, thì cũng có người khác
- Và đã có tôi và người khác, thì có luyến ái và thù hận.
- Và cái đôi “tôi, người” là nguồn gốc của mọi đau khổ”.
Mục tiêu của Phật giáo là giúp chúng sinh thoát khỏi cái ảo ảnh về sự thường hằng của các vật thể, là chỉ ra sự vô thường của chúng. Đức Phật đã nói rằng sự vô thường là đề tài quan trọng nhất cho sự thiền định.
Sự vô thường thì rất dễ thấy trong thế giới vĩ mô, nhưng suy tư về những thay đổi liên tục trong thâm tâm chúng ta còn đem lại những kết quả sâu sắc hơn. Và chính sự vô thường các hiện tượng và thâm tâm của chúng ta có thể đưa chúng ta đến Giác Ngộ.
---🍂🌿🍂---
Trích: “Đối Thoại Giữa Khoa Học Và Phật Giáo”
Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận
BS: Hồ Hữu Hưng dịch

Sunday, December 25, 2022

NHỮNG LỜI VÀNG NGỌC

Tôi chôm chỉa bài này trên FB của Cô Bé Ngày Xưa.

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
«...tôi thực sự không biết Đức Phật là ai. Hồi đó tôi còn rất trẻ. Chỉ là một người hoàn toàn mới, bắt đầu chập chững đọc và tìm hiểu. Tôi nghĩ người này, dù người đó là ai chăng nữa, cái người được gọi là Đức Phật này nhất định phải là một người có nội tâm rất mạnh mẽ, không thể là một con người yếu đuối. Ngài có rất nhiều năng lượng bên trong, rất nhiều sức mạnh nội tâm và rất nhiều tự do. Ngài tự do để cho mọi người tìm hiểu Ngài một cách thoải mái. Chỉ những người hoàn toàn tự do và giải thoát mới có thể cho phép người khác tự do soi xét, tìm hiểu về mình như thế. Nếu chúng ta cảm thấy bên trong mình yếu đuối, bất lực, nếu bạn không có được sức mạnh nội tâm, thì bạn sẽ thường đòi hỏi người khác phải tin vào bạn. Khi có người cứ luôn đòi người khác phải tin mình hoàn toàn, điều đó cho thấy, người đó thật sự yếu đuối, người đó không có tự do, không giải thoát. Điều đó cho thấy người đó phụ thuộc, dựa dẫm vào những người tin theo họ. Anh ta muốn người khác phải tin anh ta, bởi vì anh ta không thể tự tin vào chính mình. Vì vậy, nếu bạn thực sự hiểu được chân lý, nếu bạn thực sự mạnh mẽ, nếu bạn thực sự độc lập, bạn sẽ không đòi hỏi ai phải tin theo bạn hết. Bạn để họ tự tìm hiểu.»
(trích: "Chú giải Kinh Kalama" - Sayadaw U Jotika)

Friday, December 23, 2022

MÙI THÁNG CHẠP

Tháng chạp có nghĩa là tháng 12 âm lịch Việt Nam , dù trong lịch in vẫn ghi số là tháng 12 nhưng văn nói người ta hay gọi là tháng chạp. Cũng như tháng 1 âm người ta  quen gọi là tháng giêng vậy đó.

Nếu mùa xuân khiến mọi người háo hức bao nhiêu thì tháng chạp mang đến nhiều thương nhớ bồi hồi bởi cái "mùi tháng chạp" đặc trưng của Tết gần kề: mùi hăng nồng của củ kiệu dưa hành, mùi bùn non xen lẫn rong rêu của những đợt tháo đìa thu hoạch đầy tôm cá, mùi của cúc, vạn thọ, mai đào khoe sắc khoe hương trên khắp phố phường và các bến hoa xuân.
Mùi gạo nếp thơm hòa trong tấm lá chuối, lá dong mà nên hình nên dạng của cái Tết đoàn viên...
Và đâu đó trong góc gạcmăngrê của má, mấy hũ giấm chuối nằm im lặng lẽ nay có dịp mang ra, tỏa thứ mùi chua phảng phất khắp nhà.
Thứ nước giấm ngả màu ngà ngà đó, mang đi ngâm kiệu là số 1. Kiệu nhà làm, nhất là những hũ kiệu được các mẹ các chị chắt chiu thường không trắng phau nõn nà nhưng gắp một tép kiệu ăn thử thì sẽ nghiện ngay bởi độ giòn tan, chua ngọt dễ chịu.
Loại giấm chuối tự thân nó chua thanh, cái vị chua được tiết chế lại bởi thứ đường tự nhiên có trong trái chuối sứ chín rục.
Chưa khi nào thấy má làm việc gì tỉ mẩn, chăm chú như khi làm kiệu Tết. Từ việc đi chợ, xách giỏ bàng rảo lên rảo xuống cái chợ đâu cỡ chục bận, má mới lựa được vài ký kiệu bóng đèn rặc Huế, tép nào cũng thon dài đẹp đẽ y nhau.
Kiệu Huế "nhỏ mà có võ", thân mọng nước, trong veo, khi "ăn" giấm đường thì lớp vỏ ngoài óng ánh rất bắt mắt.
Má làm kiệu phải đúng y 3 bước: rửa sạch ngâm tro bếp, rồi mang đi rửa sạch ngâm giấm, ngâm phèn chua. Ngâm ủ xong, má lại mang rửa sạch lần nữa. Kiệu qua ba lần ngâm rửa đã tưa gần hết lớp vỏ, rễ bên ngoài.
Trải kiệu ra tấm nia lớn phơi đâu 3, 4 nắng cho kiệu thiệt héo, má mới chịu mang kiệu vô cắt rễ, cắt đuôi lá, tước vỏ lụa cho sạch sẽ.
Nấu giấm đường xong, má lại ngồi bên hiên, gắp từng tép kiệu xếp xung quanh keo thủy tinh thành từng lớp chồng lên nhau như những bông hoa nhiều cánh. Cái keo kiệu của má nó đẹp, nó cầu kỳ đến mức chỉ nhìn thôi chứ không nỡ gắp ra ăn.
Nhưng mấy đứa con háu ăn, háo Tết như tôi làm gì cầm lòng cho được. Thể nào cũng có lúc tôi lén má mở nắp keo, nhón mấy tép kiệu nhỏ xíu để má không phát hiện, rồi tiện thể nhón luôn mấy con tôm khô đỏ au trong tủ bếp, ăn lấy ăn để mà thấy ngon như Tết!
Thấy má cười là thấy cả một mùa Tết thương yêu rộn ràng ở bên. Tôi luôn muốn níu kéo nụ cười đó của má, nên mỗi mùa tháng chạp về là đều bày ra làm củ kiệu dưa hành, để nghe thứ mùi hoài niệm dậy lên tha thiết.
T/G  THT

Ngày Sinh Nhật

  Lâu rồi không viết văn. Ẩn cư nhập thất trên núi để tìm …để trải nghiệm thực tại mới mẻ. Ngày sinh nhật với món quà là sách 108 lời tự tại...