Sunday, December 25, 2022

NHỮNG LỜI VÀNG NGỌC

Tôi chôm chỉa bài này trên FB của Cô Bé Ngày Xưa.

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
«...tôi thực sự không biết Đức Phật là ai. Hồi đó tôi còn rất trẻ. Chỉ là một người hoàn toàn mới, bắt đầu chập chững đọc và tìm hiểu. Tôi nghĩ người này, dù người đó là ai chăng nữa, cái người được gọi là Đức Phật này nhất định phải là một người có nội tâm rất mạnh mẽ, không thể là một con người yếu đuối. Ngài có rất nhiều năng lượng bên trong, rất nhiều sức mạnh nội tâm và rất nhiều tự do. Ngài tự do để cho mọi người tìm hiểu Ngài một cách thoải mái. Chỉ những người hoàn toàn tự do và giải thoát mới có thể cho phép người khác tự do soi xét, tìm hiểu về mình như thế. Nếu chúng ta cảm thấy bên trong mình yếu đuối, bất lực, nếu bạn không có được sức mạnh nội tâm, thì bạn sẽ thường đòi hỏi người khác phải tin vào bạn. Khi có người cứ luôn đòi người khác phải tin mình hoàn toàn, điều đó cho thấy, người đó thật sự yếu đuối, người đó không có tự do, không giải thoát. Điều đó cho thấy người đó phụ thuộc, dựa dẫm vào những người tin theo họ. Anh ta muốn người khác phải tin anh ta, bởi vì anh ta không thể tự tin vào chính mình. Vì vậy, nếu bạn thực sự hiểu được chân lý, nếu bạn thực sự mạnh mẽ, nếu bạn thực sự độc lập, bạn sẽ không đòi hỏi ai phải tin theo bạn hết. Bạn để họ tự tìm hiểu.»
(trích: "Chú giải Kinh Kalama" - Sayadaw U Jotika)

Friday, December 23, 2022

MÙI THÁNG CHẠP

Tháng chạp có nghĩa là tháng 12 âm lịch Việt Nam , dù trong lịch in vẫn ghi số là tháng 12 nhưng văn nói người ta hay gọi là tháng chạp. Cũng như tháng 1 âm người ta  quen gọi là tháng giêng vậy đó.

Nếu mùa xuân khiến mọi người háo hức bao nhiêu thì tháng chạp mang đến nhiều thương nhớ bồi hồi bởi cái "mùi tháng chạp" đặc trưng của Tết gần kề: mùi hăng nồng của củ kiệu dưa hành, mùi bùn non xen lẫn rong rêu của những đợt tháo đìa thu hoạch đầy tôm cá, mùi của cúc, vạn thọ, mai đào khoe sắc khoe hương trên khắp phố phường và các bến hoa xuân.
Mùi gạo nếp thơm hòa trong tấm lá chuối, lá dong mà nên hình nên dạng của cái Tết đoàn viên...
Và đâu đó trong góc gạcmăngrê của má, mấy hũ giấm chuối nằm im lặng lẽ nay có dịp mang ra, tỏa thứ mùi chua phảng phất khắp nhà.
Thứ nước giấm ngả màu ngà ngà đó, mang đi ngâm kiệu là số 1. Kiệu nhà làm, nhất là những hũ kiệu được các mẹ các chị chắt chiu thường không trắng phau nõn nà nhưng gắp một tép kiệu ăn thử thì sẽ nghiện ngay bởi độ giòn tan, chua ngọt dễ chịu.
Loại giấm chuối tự thân nó chua thanh, cái vị chua được tiết chế lại bởi thứ đường tự nhiên có trong trái chuối sứ chín rục.
Chưa khi nào thấy má làm việc gì tỉ mẩn, chăm chú như khi làm kiệu Tết. Từ việc đi chợ, xách giỏ bàng rảo lên rảo xuống cái chợ đâu cỡ chục bận, má mới lựa được vài ký kiệu bóng đèn rặc Huế, tép nào cũng thon dài đẹp đẽ y nhau.
Kiệu Huế "nhỏ mà có võ", thân mọng nước, trong veo, khi "ăn" giấm đường thì lớp vỏ ngoài óng ánh rất bắt mắt.
Má làm kiệu phải đúng y 3 bước: rửa sạch ngâm tro bếp, rồi mang đi rửa sạch ngâm giấm, ngâm phèn chua. Ngâm ủ xong, má lại mang rửa sạch lần nữa. Kiệu qua ba lần ngâm rửa đã tưa gần hết lớp vỏ, rễ bên ngoài.
Trải kiệu ra tấm nia lớn phơi đâu 3, 4 nắng cho kiệu thiệt héo, má mới chịu mang kiệu vô cắt rễ, cắt đuôi lá, tước vỏ lụa cho sạch sẽ.
Nấu giấm đường xong, má lại ngồi bên hiên, gắp từng tép kiệu xếp xung quanh keo thủy tinh thành từng lớp chồng lên nhau như những bông hoa nhiều cánh. Cái keo kiệu của má nó đẹp, nó cầu kỳ đến mức chỉ nhìn thôi chứ không nỡ gắp ra ăn.
Nhưng mấy đứa con háu ăn, háo Tết như tôi làm gì cầm lòng cho được. Thể nào cũng có lúc tôi lén má mở nắp keo, nhón mấy tép kiệu nhỏ xíu để má không phát hiện, rồi tiện thể nhón luôn mấy con tôm khô đỏ au trong tủ bếp, ăn lấy ăn để mà thấy ngon như Tết!
Thấy má cười là thấy cả một mùa Tết thương yêu rộn ràng ở bên. Tôi luôn muốn níu kéo nụ cười đó của má, nên mỗi mùa tháng chạp về là đều bày ra làm củ kiệu dưa hành, để nghe thứ mùi hoài niệm dậy lên tha thiết.
T/G  THT

Wednesday, December 21, 2022

TRUYỆN QUAN ÂM THỊ KÍNH

Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.

Truyện “Quan Âm Thị Kính” thấy có bản in năm 1868 mang tiêu đề là “Quán Âm Chú Giải Tân Truyện”, bằng chữ Nôm. Tất cả gồm 788 câu thơ “lục bát” và một lá thư của tiểu Kính Tâm gửi về cha mẹ được viết theo lối văn “biền ngẫu”. Bản in đầu tiên bằng chữ quốc ngữ do Nguyễn Văn Vĩnh ấn hành năm 1911.
Images
ELiCTQO
Nhân vật chính trong truyện là Thị Kính, một hóa thân của “Bồ Tát Quan Thế Âm”. “Bồ Tát” có nghĩa là người tu hành gần đến bậc Phật và thường có lòng từ bi cứu khổ cho khắp cả mọi chúng sinh. “Quan” là quan sát, xem xét, lắng nghe. “Thế” là thế gian, là cõi đời. “Âm” là âm thanh, là tiếng nói. “Quan Thế Âm” là lắng nghe các âm thanh, các tiếng kêu cứu của người thế gian đang bị lâm nạn, đang chìm trong biển khổ để đến cứu vớt họ. Theo nghĩa kinh điển nhà Phật hai chữ “quan” và “quán” có đồng một nghĩa. Chính vì thế mà người ta có thể nói là “Quan Thế Âm” hay “Quán Thế Âm” cũng được. Về sau người ta gọi tắt là “Quan Âm” hay “Quán Âm”.
Tóm tắt truyện “Quan Âm Thị Kính” như sau:
Có một người nam tu hành qua chín kiếp. Gần thành Phật. Cuối cùng chỉ vì một thoáng tà tâm nên bị đầu thai xuống trần thế làm con gái. Tên Thị Kính. Cô gái lấy chồng là Thiện Sĩ. Bị nghi oan là muốn giết chồng. Cô trở về nhà cha mẹ. Cải trang thành người nam. Tìm đến chùa Vân xin đi tu. Được gọi là chú tiểu Kính Tâm. Trong làng có ả Thị Mầu lẳng lơ, mang thai, đổ tội cho tiểu là cha đứa trẻ. Tiểu không nhận tội, bị làng tra khảo và mọi người chê bai. Sư chùa Vân phải lãnh tiểu về. Thị Mầu sinh con đem đến bỏ cho tiểu. Tiểu nhẫn nhục nuôi trẻ. Khi tiểu qua đời mọi người mới biết tiểu là người nữ. Gia đình Thị Mầu phải lo việc tang ma. Thị Mầu xấu hổ tự tử chết. Trong đám tang Kính Tâm có sự hiện diện của cha mẹ Kính Tâm cùng chàng Thiện Sĩ và đứa trẻ con Thị Mầu. Kính Tâm siêu thăng thành Phật Quan Âm. Cha mẹ và đứa trẻ cũng được siêu thăng. Riêng Thiện Sĩ thời làm con vẹt đứng nhờ một bên.
Truyện “Quan Âm Thị Kính” đề cao các hạnh trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục cùng cực. Ngoài ra truyện còn đề cập tới hai vấn đề là chữ “hiếu” và chữ “nhân” của người xuất gia theo đạo Phật. Tiểu Kính Tâm tuy xuất gia nhưng lòng thương nhớ cha mẹ vẫn tràn đầy. Người xuất gia không chấm dứt tình cảm với gia đình mà chỉ nâng tình cảm đó lên một bình diện rộng lớn với một mức độ thắm thiết, sâu sắc và cao cả hơn mà thôi. Quan niệm hiếu không chỉ nhắm vào mỗi việc chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ bằng vật chất mà còn phải tìm mọi cách để độ cho cha mẹ thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, vì Đạo Phật là đạo giải thoát. Kính Tâm mặc dù bị Thị Mầu vu oan, chịu khổ sở, nhưng vẫn hết lòng nuôi con Thị Mầu chu đáo, tận tình như nuôi con đẻ của chính mình. Bởi vì Đức Phật dạy người xuất gia phải có lòng từ rộng lớn, phải thương yêu tất cả mọi chúng sinh như là người mẹ thương yêu con ruột của mình.
Như vậy bà Thị Kính, tức tiểu Kính Tâm, xuất gia tu Đạo Phật đã đền đáp đầy đủ công ơn cha mẹ, đồng thời lại giúp đời, cứu người. Cả hai chữ hiếu và chữ nhân đều vẹn toàn. Tinh thần Phật Giáo đã là một ngọn hải đăng chói sáng hướng dẫn cho bà Thị Kính trong hành trình vượt qua con sông mê để vươn tới bến bờ giác ngộ, để bà Thị Kính trở thành tiểu Kính Tâm và sau đó tiểu Kính Tâm trở thành Đức Phật Quan Âm.

Tuesday, December 20, 2022

Niệm thiên thần

Một thiên thần là một trạng thái thánh linh của tâm thức biểu thị cho các Phẩm chất , Đức hạnh và Năng lực của Chúa mà tất cả chúng ta đều có bên trong , dù ta có nhận thức được nó hay không. Lúc khởi thủy của các Thiên thần , như ta đã biết trong các truyền thống Thiên Chúa giáo , Do Thái giáo và Hồi giáo có 72 thiên thần , 72 khía cạnh của Tạo hóa với năng lực dẫn dắt ta khám phá những trạng thái huyền bí cao nhất. 

Tro-thanh-thien-than

Theo định nghĩa của thiên thần học truyền thống, mỗi Bản thể Thiên thần có một cái tên Do Thái và một độ rung . Khi chúng ta phát âm ra miệng hoặc đọc thầm  một cái tên Thiên thần thiêng liêng , một độ rung vang vọng sẽ hình thành  , tác động trực tiếp đến ký ức tế bào . Từ đó , chúng ta được kết nối với năng lượng Thiên Thần Thiêng Liêng , Thuần khiết , với bản thể của tạo vật, mà dần dần sẽ kích hoạt tâm thức thiên thần của ta , năng lực của ta để mơ và du hành vũ trụ đa chiều.

Saturday, December 17, 2022

Uống trà đêm

Uống trà đêm 

Chúng ta hãy chào đón buổi tối yên ả tới


Trích từ sách
月 夜 
 
更 深 月 色 半 人 家 
北 斗 闌 干 南 斗 斜 
今 夜 偏 知 春 氣 暖 
蟲 聲 新 透 綠 窗 沙

Đêm đã thâu rồi và trăng chỉ cho ta nửa ánh sáng.

Đại hùng ngang chân trời , Tiểu hùng đã lặn.

Chính đêm nay là lúc ta có thể tin vào Xuân

Trong lúc tiếng côn trùng thấm qua hơi ấm của rèm lụa lục.

Wednesday, December 14, 2022

LINH ẢNH TẠI ĐỀN TSAPARANG

Trích từ sách Con Đường Mây Trắng

T/g Anagarika  Govinda

Nguyễn Tường Bách biên dịch

Mặc chiếc áo hữu hiện,
Chân Như bị hạn chế.
Lấy dạng hình thi ca,
Vận động nhẹ như bông.
(Rabindranath Tagore)

Đó là một đêm đầy dông bão trên cổ điện hoang tàn tại Tsaparang, ngày xưa là thủ phủ của một vương quốc hùng hậu của miền tây Tây Tạng. Mây kéo nhau qua dầy đặc trên bầu trời, làm vầng trăng tròn khi chiếu rọi khi biến mất, để cho ánh trăng, như phát ra từ một chiếc đèn ma quái, nhảy múa trên một sân khấu khổng lồ, diễn lại lịch sử của một bi kịch bất tử. Tôi nói “bất tử” vì đó là bi kịch miên viễn của sự hoại diệt, của sự phục hưng trong trò chơi kỳ diệu của sức mạnh và thiện mỹ, của vẻ rực rỡ thế gian và của thành tựu tâm linh.

Sức mạnh đã suy tàn nhưng vẻ đẹp vẫn còn vương trên cung điện hoang phế, còn nằm yên trong những tác phẩm nghệ thuật, chúng đã được tạo thành bằng sự kiên trì và nhẫn nhục, trong bóng tối của một thời thịnh trị. Cái rực rỡ và hùng mạnh đã trở thành cát bụi, cái thần của văn hóa và niềm xác tín tôn giáo đã rút lui trong sự độc cư xa lánh cuộc đời, chúng còn hiện diện trong ngôn ngữ từ hay tác phẩm của thánh nhân, thi sĩ hay đạo sư và qua đó mà khẳng định lại lời của Lão Tử, rằng cái mềm yếu mới sống còn, cái cứng mạnh chỉ thuộc về cõi chết.




















Số phận của Tsaparang đã an bài. Công trình của con người và tạo tác của thiên nhiên hầu như không còn phân biệt được nữa. Cổ điện đã biến thành cát đá và cát đá vươn lên như cung điện uy nghiToàn bộ ngọn núi hùng vĩ hiện ra như một tảng đá cẩm thạch vĩ đại, trong đó khắc họa một thành quách hoang đường: với lâu đài và cung điện, với tháp với vách, cao như muốn đụng đến mây, dựng đứng trên vách đá thẳng cheo leo, như một tổ ong với hàng trăm hàng ngàn ngăn hộc.

Ánh trăng mờ tỏ chiếu rọi làm cảnh vật hầu như vô thực và thêm đáng sợ, trong đó mọi sự đột nhiên biến mất, nhanh như chúng đã xuất hiện.

Ngôi đền màu đỏ thờ Phật Thích-Ca Mâu-Ni chìm trong bóng tối tĩnh lặng. Chỉ riêng khuôn mặt bức tượng vàng to lớn Thích-Ca Mâu-Ni hầu như tỏa ra một thứ ánh sáng êm dịu, ánh sáng này được tiếp nhận và phản chiếu bởi tượng của các vị Thiền Phật ở bên cạnh tả hữu của Ngài.

Bỗng nhiên tường vách của ngôi đền bắt đầu rung động và tiếng ầm ầm đáng sợ của đá đổ vang lên. Hộp gỗ đựng đèn thờ Phật Thích-Ca bỗng vỡ tung và khuôn mặt tượng Phật rực sáng ánh trăng, cả ngôi đền được chiếu sáng rực.

Cả không gian bỗng đầy tiếng than thở, hầu như cả ngôi đền rên rĩ dưới sức nặng của bao thế kỷ.

Một kẽ nứt to lớn hiện ra trên bức tượng bên cạnh bức họa nữ thần sắc trắng Tara và gần đụng một cánh hoa nằm cạnh tòa sen của thần.

Thần thức sống trong cánh hoa hoảng sợ nhảy ra khỏi trú xứ của mình, hai tay chắp lại hướng về thần Tara:

“Hỡi thần, kẻ cứu độ mọi loài sinh linh, hãy cứu chúng con và ngôi đền thiêng liêng này, đừng để bị hoại diệt!”

Với cặp mắt từ bi, Tara nhìn chỗ phát tiếng nói và hỏi: “Ngươi là ai, thần thức nhỏ bé kia?”

“Con là thần thức của cái đẹp, trú trong cánh hoa bên cạnh Ngài”.

Tara nở một nụ cười đẹp như người mẹ và chỉ vào một góc khác của ngôi đền: “Trong các lời giáo hóa quí báu hiện được cất chứa trong các bộ kinh có một kinh mang tên Bát-Nhã Ba-la-mật. Trong đó có lời dạy sau đây của Đức Thế Tôn.

Cần phải quán như sau:

như đám mây trôi nổi,

như sao sớm bầu trời,

như ánh lửa vô thường,

như sóng nước suy tàn,

như bóng ma, ảo ảnh,

như giấc mộng chóng tan”.

Thần thức cánh hoa nước mắt đầy tròng: “Ôi, những lời này chân thực biết bao, hết sức chân thựchết sức thiện mỹ! Và nơi đâu có vẻ đẹp, dù cho chỉ một lần để ánh mắt ngời sáng, là ở đó có một dây đàn bất tử dã rung lên trong ta. Vâng, chúng ta đều ở trong cơn đại mộng, và ta hy vọng cuối cùng sẽ thức tỉnhnhư Như Lai, Đức Thế Tôn, vì lòng từ bi đã xuất hiện trong “dạng mộng” của Ngài để đưa chúng ta đến giác ngộ”.

Khi nói như thế, thần thức của cái đẹp nghiêng mình hướng về Thích-Ca Mâu-Ni, mà tượng Ngài cũng như tất cả mọi hình tượng khác của ngôi đền, trong phút giây kỳ diệu này đã trở thành sống động.

“Không phải vì con thôi”, thần thức nói tiếp, “mà con xin Ngài cứu độ. Con biết tất cả mọi sắc thể đáng sống nơi đây sẽ hoại diệt - cũng như những lời dạy của Đức Như Lai chứa trong các kinh bản bám bụi đã nói. Điều con mong cầu là: đừng để cho các kinh điển đó mất đi trước khi chúng ta truyền được thông điệp vĩ đại đã ghi trong đó.

Con lạy Ngài, hỡi mẹ của tất cả sinh linh, của tất cả các vị Phật, hãy có lòng từ bi với tất cả mọi người chỉ vướng ít bụi trong mắt, những người có thể thấy và hiểu được, chỉ cần chúng ta ở lâu thêm một chút trong dạng đại mộng của mình, để cho thông điệp của chúng ta đến được với họ, hay trao được cho những người có thể phổ biến thêm ra, vì ích lợi của mọi loài hữu tình.

Đạo sư của chúng ta là Thích-Ca Mâu-Ni ngày xưa cũng được các thiên nhân khẩn cầu, khoan hãy nhập Đại Niết bàn khi Ngài đạt giác ngộ vô thượng. Hãy cho con được cầu khẩn Ngài với lý do như thế, xin được quy y với Ngài và với vô số dạng hình của Ngài”.

Thần thức lại cúi mình, hai tay chắp trước trán, trước hình tượng uy nghi sáng rực của Phật Thích-Ca Mâu-Ni và tất cả chư Phật và Bồ-tát tề tựu xung quanh.

Thần Tara nhắc tay bắt ấn cứu độ và khuôn mặt sáng rực của Thích-Ca Mâu-Ni mỉm cười đồng ý. “Thần thức của cái đẹp đã nói lên sự thực, tâm của thần thức đày lòng thành khẩn. Vì làm sao khác được? Không phải cái đẹp là kẻ chuyên chở và phụng sự cho Chân như sao? Cái đẹp là nơi thể hiện của sự hòa điệu mọi dạng hình, dù đó là sắc thấy được hay âm nghe được, dù đó là vật chất hay phi vật chất. Dù mọi dạng hình là vô thường nhưng sự hòa điệu, điều mà các dạng đó trình bày và thể hiện, thuộc về vương quốc bất tử của tâm, thuộc về quy luật sâu kín nhất của Chân như mà ta gọi là Pháp.

Nếu ta không diễn đạt Pháp vĩnh cửu đó bằng sự hòa điệu hoàn hảo trong ngôn từ và tư tưởng, thì ta cũng đã không thông qua thần thức của vẻ đẹp mà kêu gọi loài ngườigiáo pháp của ta đã không rung động tim óc họ, giáo pháp đó đã không sống nổi một thế hệ.

Ngôi đền này sẽ sụp đổ cũng như các kinh sách nằm trong các góc nọ sẽ tàn tạ, đó là những kinh sách mà các đệ tử của ta đã chép lại, với sự nghiêm túc và nhiệt thành vô lượng. Nhưng những người khác cũng đã chép lại, từng chữ một, cho nên dù các văn bản này có thể bị hủy hoại, giáo pháp vẫn tiếp tục được truyền bá. Cũng như thế, mong sao các công trình khác của nghệ sĩ hay thánh nhân, các vị đã làm nên ngôi đền thiêng liêng này, sẽ được bảo toàn cho những thế hệ sau.

Hỡi thần thức cái đẹp, mong ước của ngươi sẽ được toại nguyện. Dạng hình của ngươi cũng như tất cả các dạng hình sống trong đền này sẽ không bị hủy hoại, bao lâu thông điệp cả các ngươi chưa đến với thế gian, thì bấy lâu mục đích thánh thiện của các ngươi chưa được toàn vẹn”.

Monday, December 12, 2022

TÌM HIỂU THẦN CHÚ HOÀNG THẦN TÀI ZAMBALA

 THẦN CHÚ HOÀNG THẦN TÀI & CÔNG ĐỨC: OM ZAMBALA ZALENDHRAYE SOHA   hoặc  AUM   JAMBHALA  JALENDRAYE  SVAHA  (Om jam bala cha len ta ya sô ha).

“Om Jambhala Jalendraya Svaha” – “Om Dzambhala Dzalim Dzaye Svaha”

Than-chu-hoang-than-tai

Phật nói, đối với người niệm tụng chú này, ta sẽ âm thầm gia trì nhiếp thụ hắn, khiến hắn đời đời kiếp kiếp chẳng lui chuyển khỏi con đường giải thoát, cho đến đắc quả bất thối chuyển Vô Thượng Bồ Đề, đời đời chẳng rơi vào 3 ác đạo, thường được kẻ trí và hiền giả 10 phương cung kính. Công Đức chú này, dù cho tất cả Long Thần, Dạ Xoa có tụ lại một nơi cũng chẳng thể nói hết; cho đến hàng Bồ Tát Thanh Văn Duyên Giác các bậc đại trí huệ như vậy cũng không thể biết được; Chư Phật 10 phương đồng tán thán, công đức đó vĩnh viễn nói không xong.
Đà La Ni chú này là nơi xuất sinh của 10 phương chư Phật. Chư Phật thường gia trì, người trì chú này có thể dễ ràng thành tựu Công Đức nơi Thập Địa, Lục Độ.
Trong Phật giáo Mật tông Tây Tạng, Dzamhala còn được coi là hóa thân của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, Phật của lòng từ bi hỷ xả.
Còn trong thần thoại Hindu, Hoàng Thần Tài lại được biết đến với cái tên Kubera. Ngài còn có tên gọi là Vaisravana, đặt theo tên cha mình – nhà hiền triết có tên Visravas.
Tại Ấn Độ, Kubera được Phật tử thờ cúng và được xem là vị thần bảo hộ của phương Bắc. Ở 1 số tài liệu khác thì nói Kubera là hiện thân của Tỳ Sa Môn Thiên Vương, chủ về tài bảo và trấn giữ phương Bắc, sở hữu con chuột có thể nhả ra châu báu ngọc ngà. 

Thursday, December 8, 2022

TÌM HIỂU THẦN CHÚ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ ( kết ấn Chuẩn Đề )

Thần chú Phật Mẫu Chuẩn Đề là một thần chú nổi tiếng trong Phật giáo. Bên cạnh đó, thần chú có thể khai mở trí tuệ Bát Nhã và giúp người niệm gặp nhiều thuận lợi trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Thực tế, sự linh ứng của Phật Mẫu Chuẩn Đề thần chú được trích trong kinh Chuẩn Đề.

Phật Mẫu Chuẩn Đề ( tiếng Phạn : Cundi  Bodhisattva ) là một vị Bồ tát  rất được tôn kính trong các trường phái đại thừa và trường phái Phật giáo Mật Tông (  Vajrayana Buddhism ) và cũng được biết đến như một Bhagavati ( mẹ của chư Phật - nữ thần trong Ấn Độ giáo )

Có lần, Đức Phật đang ngồi thiền trong vườn Anathapindika thuộc khu rừng Jetavana gần thành phố Sravasti. Thời điểm đó, Ngài đã quán chiếu và quan sát tương lai của chúng sinh. Với lòng bi mẫn lớn lao đối với họ, Đức Phật quyết định mô tả về Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh (Cundi Dharani Sutra), trái tim của người mẹ trong Bảy Câu chi (Kotis) Phật. Như vậy, Đức Phật đã tiết lộ thần chú:

Namaḥ Saptānāṃ Samyaksaṃ Buddha Koṭīnāṃ Tadyathā:

Namaḥ: Tôi trú ẩn trong Mẹ của chư Phật

Saptānām: Bảy

Samyaksaṃbuddha: Giác ngộ hoàn hảo

Koṭīnāṁ: Một Koti tương đương với mười tỷ

Tadyathā: Như vậy, nó được tuyên bố như vậy

Oṃ Cale Cule Cunde Svāhā hoặc Om Cale Cule Cundi Soha

Oṃ: Một từ thiêng liêng trong Ấn Độ giáo. Nó được coi là một biểu tượng âm thanh ban đầu của vũ trụ.

Cale: Một biến thể của tên Cundi

Cule: Một biến thể khác

Cundī: Sự tinh khiết của Phật Mẫu Chuẩn Đề

Svāhā: Có thể đó là sự thật!

Tôi quy y trước bảy mươi triệu hoàn hảo giác ngộ chư Phật. Như vậy: Om! Chuẩn đề! Chuẩn đề! Cầu mong lời nguyện thanh tịnh này có thể là sự thật!

 
Học cách kết ấn Chuẩn Đề 
 

Wednesday, December 7, 2022

TÌM HIỂU RED – TARA ( HỒNG QUAN ÂM )

Tác Minh Phật Mẫu – Tara Đỏ ( Red -Tara)   đặc biệt che chở cho chúng sinh thoát sự yếu đuối. Ngài tiêu diệt sự yếu đuối trong con người và đem lại cho họ sức mạnh.

Tác Minh Phật Mẫu – Tara Đỏ – Hồng Độ Mẫu (Tên Anh: Red Tara) (Tên Tây Tạng: Rikjéma རིག་བྱེད་མ་སྐྱོབ་པ།), tiếng Phạn (Sanskrit) là Kurukulla hay Kurukulle, dịch âm Hán Việt là Cô Lỗ Cô La hay Cổ Lỗ Cổ Liệt. Cũng được gọi là Cô Lỗ Cô La Bồ Tát, Cổ Lỗ Cô Liệt Phật Mẫu, Hoài Nhu Phật Mẫu.


Tara Đỏ – Hồng Độ Mẫu

Quán Thế Âm ba lần vét sạch luân hồi.

Tara là Bổn tôn cứu con người thoát khỏi tai ương, chướng nạn, sợ hãi. Đó là ý nghĩa của hồng danh “Tara”.

Tâm chú Tác Minh Phật Mẫu

Tâm chú Tác Minh Phật Mẫu được truyền dạy tùy theo Dòng Phái  là:

– Oṃ Kurukulle Svāhā

– Oṃ Kuruklle  Hrīḥ Hūṃ Svāhā

– Oṃ Padma-Ḍākiṇī  Kurukulle Hrīḥ Svāhā

Nhưng phần lớn thì truyền dạy Tác minh Phật Mẫu Tâm Chú là:

– OṂ KURUKULLE HRĪḤ SVĀHĀ

– Ôm, Ku Ru Ku Lê, Ri, Sô Ha

Và 1 thần chú phổ biến khác:

Om Tare Tam Soha

Tuesday, December 6, 2022

TÌM HIỂU NGŨ TRÍ NHƯ LAI

5 VỊ PHẬT TƯỢNG TRƯNG CHO NGŨ BỘ

nói một cách đơn giản , dễ hình dung , trong cuộc sống chúng ta , mỗi một bộ tộc người đều có một người đứng đầu  làm chủ  thì trong các bộ của phật giáo cũng vậy , năm bộ đều có năm vị phật đứng đầu , tượng trưng cho mỗi bộ . và được chi ra như sau
Phật Bộ thì có đức Tỳ Lô Giá Na ( vairocana ) Như Lai hay còn gọi là Đại Nhật Như Lai làm giáo chủ
Liên Hoa Bộ thì có đức A D Đà Như lai ( Amita ) hay còn gọi là Vô Lượng Thọ Phật làm giáo chủ
Kim Cang Bộ thì có đức A Súc Bệ  Như Lai ( Aksobhya ) làm giáo chủ
bão bộ thì có đức Bảo Sanh  Như Lai ( Ratnasambhava ) làm giáo chủ
Yết Ma Bộ ( nghiệp dụng bộ ) thì có đức Bất Không Thành Tựu (Amogasiddhi ) làm giáo chủ
năm vị Phật này trong mật tông còn gọi là Ngũ Phương Ngũ Phật , Ngũ Trì Như Lai , Ngũ Phương Phật !

Ngũ Trí Phật chuyển hóa từ 5 uẩn.
𝟏                         𝟐                    3                  𝟒                  𝟓
𝐕𝐨̂ 𝐌𝐢𝐧𝐡 𝐓𝐡𝐚𝐦 𝐌𝐮𝐨̂́𝐧 𝐒𝐚̂𝐧 𝐇𝐚̣̂𝐧 𝐊i𝐞̂𝐮 𝐌𝐚̣𝐧 𝐆𝐡𝐞𝐧 𝐓𝐲̣
1️⃣ 𝐏𝐇𝐀̣̂𝐓 𝐁𝐎̣̂
Phật Đại Nhật – Vairocana
Pháp Giới Thể Tánh Trí: sự tròn đầy viên mãn của Trí huệ Phật
Ấn: Chuyển Pháp Luân
Vị Trí: Trung Tâm
Màu Sắc : Trắng
Biểu Tượng: Chuyển Pháp Luân
Chủng Tự: 𝐎𝐌
Chân Ngôn: 𝐎𝐌 𝐕𝐀𝐈𝐑𝐎𝐂𝐇𝐀𝐍𝐀 𝐇𝐔𝐌
2️⃣ 𝐋𝐈𝐄̂𝐍 𝐇𝐎𝐀 𝐁𝐎̣̂
Phật A Di Đà Vô Lượng Quang– Amitabha
Diệu Quán Sát Trí chuyển hóa từ thức thứ Sáu (Ý thức)
Ấn: Thiền Định Ấn
Màu Sắc: Đỏ
Vị Trí: Tây
Biểu Tượng : Hoa Sen
Chủng Tự: 𝐇𝐑𝐈𝐇
Chân Ngôn: 𝐎𝐦 𝐀𝐌𝐈 𝐃𝐄𝐖𝐀 𝐇𝐑𝐈𝐇
3️⃣ 𝐊𝐈𝐌 𝐂𝐀𝐍𝐆 𝐁𝐎̣̂
Phật Bất Động A Súc Bệ– Akshobyha
Đại Viên Cảnh Trí, Chuyển hóa từ thức thứ Tám (Alaya thức)
Ấn: Xúc Địa Ấn
Màu Sắc: Xanh Dương
Vị Trí: Đông
Biểu Tượng: Chày Kim Cương Đơn
Chủng Tự: 𝐇𝐔𝐍𝐆
Chân Ngôn: 𝐎𝐌 𝐀𝐊𝐒𝐇𝐎𝐁𝐇𝐘𝐀 𝐇𝐔𝐍𝐆
4️⃣ 𝐁𝐀̉𝐎 𝐁𝐎̣̂
Phật Bảo Sanh – Ratnasambhava
Bình Đẳng Tánh Trí chuyển hóa từ thức thứ Bảy (mạt na thức)
Ấn: Thí Nguyện Ấn
Màu Sắc: Vàng
Vị Trí: Nam
Biểu Tượng : Bảo Châu
Chủng Tự: 𝐓𝐑𝐀𝐌
Chân Ngôn: 𝐎𝐌 𝐑𝐀𝐓𝐍𝐀𝐒𝐀𝐌𝐁𝐇𝐀𝐕𝐀 𝐓𝐑𝐀𝐌
5️⃣ 𝐍𝐆𝐇𝐈𝐄̣̂𝐏 𝐁𝐎̣̂
Phật Bất Không Thành Tựu– Amoghasiddhi
Thành Sở Tác Trí chuyển hóa từ năm Thức (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân)
Ấn: Vô Úy Ấn
Màu Sắc: Xanh Lá Cây
Vị Trí: Bắc
Biểu Tượng: Chày Kim Cương Kép
Chủng Tự: 𝐀𝐇
Chân Ngôn: 𝐎𝐌 𝐀𝐌𝐎𝐆𝐇𝐀 𝐒𝐈𝐃𝐃𝐇𝐈 𝐀𝐇
Thần Chú Ngũ Phương Phật : 𝐎𝐌 𝐀𝐇 𝐇𝐔𝐍𝐆 𝐒𝐕𝐀𝐇𝐀

Ngày Sinh Nhật

  Lâu rồi không viết văn. Ẩn cư nhập thất trên núi để tìm …để trải nghiệm thực tại mới mẻ. Ngày sinh nhật với món quà là sách 108 lời tự tại...